Nhất Thiết Chúng Sanh Sái Biệt Thân Tam Muội

Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát nhất thiết chúng sanh sái biệt thân tam muội?
Phật tử ! Thế nào là tam muội Tất cả thân chúng sinh khác biệt của đại Bồ Tát ?
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Thế nào là đại tam muội tất cả thân chúng sinh khác biệt của đại Bồ Tát ?

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, đắc thập chủng vô sở trước. hà giả vi thập? Sở vị: ư nhất thiết sát vô sở trước, ư nhất thiết phương vô sở trước, ư nhất thiết kiếp vô sở trước, ư nhất thiết chúng vô sở trước, ư nhất thiết Pháp vô sở trước, ư nhất thiết Bồ Tát vô sở trước, ư nhất thiết Bồ Tát nguyện vô sở trước, ư nhất thiết tam muội vô sở trước, ư nhất thiết Phật vô sở trước, ư nhất thiết địa vô sở trước. Thị vi thập.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, đắc được mười thứ không chấp trước. Những gì là mười ? Đó là : Nơi tất cả cõi không chấp trước. Nơi tất cả phương không chấp trước. Nơi tất cả kiếp không chấp trước. Nơi tất cả chúng không chấp trước. Nơi tất cả pháp không chấp trước. Nơi tất cả Bồ Tát không chấp trước. Nơi tất cả Bồ Tát nguyện không chấp trước. Nơi tất cả tam muội không chấp trước. Nơi tất cả chư Phật không chấp trước. Nơi tất cả địa không chấp trước. Đó là mười.
Giảng: Các vị Phật tử ! Vị đại Bồ Tát này tu Bồ Tát đạo, viên mãn lục độ vạn hạnh, tích tập đủ thứ căn lành công đức, khi trụ tam muội tất cả thân chúng sinh khác biệt, đắc được mười thứ tự tại không chấp trước. Những gì là mười ? Đó là :
1. Đối với tất cả cõi Phật không chấp trước.
2. Đối với tất cả địa phương không chấp trước.
3. Đối với tất cả kiếp số không chấp trước.
4. Đối với tất cả chúng sinh không chấp trước.
5. Đối với tất cả pháp tướng không chấp trước.
6. Đối với tất cả Bồ Tát không chấp trước.
7. Đối với tất cả Bồ Tát nguyện không chấp trước.
8. Đối với tất cả tam muội không chấp trước.
9. Đối với tất cả chư Phật không chấp trước.
10. Đối với tất cả địa vị không chấp trước.
Đó là mười pháp không chấp trước. Vì Bồ Tát quét tất cả pháp lìa tất cả tướng, cho nên phá tất cả mọi sự chấp trước. Chúng ta người tu đạo, cũng phải phá tất cả mọi sự chấp trước, phải học tập theo tinh thần của Bồ Tát, vì người chẳng vì mình. Tóm lại, vạn sự đều « OK », thì chẳng có sự chấp trước. Nói cách khác, tốt cũng chẳng chấp trước, xấu cũng chẳng chấp trước, tất cả đều buông bỏ hết. Trong Tâm Kinh có nói : « Vì không quái ngại, nên không có sợ hãi, xa lìa điên đảo mộng tưởng, rốt ráo Niết Bàn ». Nếu như buông bỏ được tất cả, thì không có quái ngại, đó là chỗ tinh hoa của Phật pháp.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư thử tam muội vân hà nhập? vân hà khởi?
Phật tử ! Đại Bồ Tát nơi tam muội này, vào như thế nào ? Khởi như thế nào ?
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nơi tam muội tất cả thân chúng sinh khác biệt, làm thế nào nhập định ? Làm thế nào xuất định ? Đây là vấn đề Bồ Tát Phổ Hiền tự hỏi tự đáp.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát ư thử tam muội, nội thân nhập, ngoại thân khởi; ngoại thân nhập, nội thân khởi; đồng thân nhập, dị thân khởi; dị thân nhập, đồng thân khởi; nhân thân nhập, dạ xoa thân khởi; dạ xoa thân nhập, long thân khởi; long thân nhập, A-tu-la thân khởi; A-tu-la thân nhập, Thiên thân khởi; Thiên thân nhập, Phạm Vương thân khởi; Phạm Vương thân nhập, dục giới thân khởi; Thiên trung nhập, địa ngục khởi; địa ngục nhập, nhân gian khởi; nhân gian nhập, dư thú khởi; thiên thân nhập, nhất thân khởi; nhất thân nhập, thiên thân khởi; na-do-tha thân nhập, nhất thân khởi; nhất thân nhập, na-do-tha thân khởi;
Phật tử ! Đại Bồ Tát nơi tam muội này, trong thân nhập, ngoài thân khởi. Ngoài thân nhập, trong thân khởi. Đồng thân nhập, khác thân khởi. Khác thân nhập, đồng thân khởi. Thân người nhập, thân Dạ Xoa khởi. Thân Dạ Xoa nhập, thân rồng khởi. Thân rồng nhập, thân A tu la khởi. Thân A tu la nhập, thân trời khởi. Thân trời nhập, thân Phạm Vương khởi. Thân Phạm Vương nhập, thân dục giới khởi. Trên trời nhập, địa ngục khởi. Địa ngục nhập, nhân gian khởi. Nhân gian nhập, cõi kia khởi. Ngàn thân nhập, một thân khởi. Một thân nhập, ngàn thân khởi. Na do tha thân nhập, một thân khởi. Một thân nhập, Na do tha thân khởi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát nơi tam muội này, có những cảnh giới như vầy : Từ trong thân nhập định, từ ngoài thân xuất định. Từ ngoài thân nhập định, từ trong thân xuất định. Từ đồng thân nhập định, từ khác thân xuất định. Từ khác thân nhập định, từ đồng thân xuất định. Từ thân người nhập định, từ thân Dạ Xoa xuất định. Từ thân Dạ Xoa nhập định, từ thân rồng xuất định. Từ thân rồng nhập định, từ thân A tu la xuất định. Từ thân A tu la nhập định, từ thân trời xuất định. Từ thân trời nhập định, từ thân Phạm Vương xuất định. Từ thân Phạm Vương nhập định, từ thân dục giới xuất định.
Bồ Tát có thể hoá thân ngàn vạn ức, phân thân vô số lượng. Đó đây không ngại, ta người vô ngại, trong ngoài vô ngại, đồng khác vô ngại, đó tức là cảnh giới thần thông diệu dụng của Bồ Tát. Bồ Tát nhập định hoặc xuất định, không nhất định tại thân mình, tuỳ thời tuỳ lúc đều có thể nhập định, tuỳ thời tuỳ lúc đều có thể xuất định, chẳng thọ sự hạn chế của thời gian và không gian, nhậm vận tự tại, diệu không thể tả.
Bồ Tát ở trên trời nhập định, từ địa ngục xuất định. Từ địa ngục nhập định, từ nhân gian xuất định. Từ nhân gian nhập định, từ cõi kia xuất định. Từ ngàn thân nhập định, từ một thân xuất định. Từ một thân nhập định, từ ngàn thân xuất định. Từ Na do tha thân nhập định, từ một thân xuất định. Từ một thân nhập định, từ Na do tha thân xuất định.
Bồ Tát vì tuỳ duyên giáo hoá tất cả chúng sinh, tự do nhập định, tự do xuất định. Cảnh giới này, toại tâm như ý. Hoan hỉ thế nào thì như thế đó, một chút cũng không miễn cưỡng, nhậm vận tự tại. Phàm là người thành tâm tu đạo, đều chứng được cảnh giới này.

Diêm-phù-đề chúng sanh chúng trung nhập, Tây Cồ đà ni chúng sanh chúng trung khởi; Tây Cồ đà ni chúng sanh chúng trung nhập, Bắc câu-lô chúng sanh chúng trung khởi; Bắc câu-lô chúng sanh chúng trung nhập, Đông tỳ đề ha chúng sanh chúng trung khởi; Đông tỳ đề ha chúng sanh chúng trung nhập, tam thiên hạ chúng sanh chúng trung khởi; tam thiên hạ chúng sanh chúng trung nhập, tứ thiên hạ chúng sanh chúng trung khởi; tứ thiên hạ chúng sanh chúng trung nhập, nhất thiết hải sái biệt chúng sanh chúng trung khởi;
Trong chúng sinh Diêm Phù Đề nhập, trong chúng sinh Tây Cù Đà Ni khởi. Trong chúng sinh Tây Cù Đà Ni nhập, trong chúng sinh Bắc Câu Lư khởi. Trong chúng sinh Bắc Câu Lư nhập, trong chúng sinh Đông Bì Đề Ha khởi. Trong chúng sinh Đông Bì Đề Ha nhập, trong chúng sinh ba thiên hạ khởi. Trong chúng sinh ba thiên hạ nhập, trong chúng sinh bốn thiên hạ khởi. Trong chúng sinh bốn thiên hạ nhập, trong chúng sinh tất cả biển khác biệt khởi. Trong chúng sinh tất cả biển khác biệt nhập, trong chúng thần tất cả biển khởi.
Giảng: Bồ Tát ở trong chúng sinh Diêm Phù Đề (Nam Thiệm Bộ Châu) nhập định, từ trong chúng sinh Tây Cù Đà Ni (Tây Ngưu Hoá Châu) xuất định. Trong chúng sinh Tây Cù Đà Ni nhập định, từ trong chúng sinh Bắc Câu Lư (Bắc Câu Lư Châu) xuất định. Trong chúng sinh Bắc Câu Lư nhập định, từ trong chúng sinh Đông Bì Đề Ha (Đông Thắng Thần Châu) xuất định. Trong chúng sinh Đông Bì Đề Ha nhập định, từ trong chúng sinh ba thiên hạ xuất định. Trong chúng sinh ba thiên hạ nhập định, từ trong chúng sinh bốn thiên hạ xuất định. Trong chúng sinh bốn thiên hạ nhập định, từ trong chúng sinh tất cả biển khác biệt xuất định. Trong chúng sinh tất cả biển khác biệt nhập định, từ trong chúng thần tất cả biển xuất định.

Nhất thiết hải sái biệt chúng sanh chúng trung nhập,
Nhất thiết hải Thần chúng trung khởi; Nhất thiết hải Thần chúng trung nhập,
Nhất thiết hải thủy đại trung khởi; Nhất thiết hải thủy đại trung nhập,
Nhất thiết hải địa đại trung khởi; Nhất thiết hải địa đại trung nhập,
Nhất thiết hải hỏa đại trung khởi; Nhất thiết hải hỏa đại trung nhập,
Nhất thiết hải phong đại trung khởi; Nhất thiết hải phong đại trung nhập,
Nhất thiết tứ đại chủng trung khởi; Nhất thiết tứ đại chủng trung nhập, vô sanh pháp trung khởi; vô sanh pháp trung nhập, diệu cao sơn trung khởi; diệu cao sơn trung nhập, thất bảo sơn trung khởi; thất bảo sơn trung nhập,
Nhất thiết địa chủng chủng giá sắc thụ lâm hắc sơn trung khởi; nhất thiết địa chủng chủng giá sắc thụ lâm hắc sơn trung nhập,
Nhất thiết diệu hương hoa bảo trang nghiêm trung khởi; Nhất thiết diệu hương hoa bảo trang nghiêm trung nhập,
Nhất thiết tứ thiên hạ hạ phương, thượng phương; Nhất thiết chúng sanh thọ sanh trung khởi;
Trong chúng thần tất cả biển nhập, trong thuỷ đại tất cả biển khởi. Trong thuỷ đại tất cả biển nhập, trong địa đại tất cả biển khởi. Trong địa đại tất cả biển nhập, trong hoả đại tất cả biển khởi. Trong hoả đại tất cả biển nhập, trong phong đại tất cả biển khởi. Trong phong đại tất cả biển nhập, trong tất cả bốn thứ đại khởi. Trong tất cả bốn thứ đại nhập, trong pháp vô sinh khởi. Trong pháp vô sinh nhập, trong núi Diệu Cao khởi. Trong núi Diệu Cao nhập, trong núi bảy báu khởi. Trong núi bảy báu nhập, trong tất cả đất đai đủ thứ cây cỏ lùm rừng hắc sơn khởi. Trong tất cả đất đai đủ thứ cây cỏ lùm rừng hắc sơn nhập, trong tất cả diệu hương hoa báu trang nghiêm khởi. Trong tất cả diệu hương hoa báu trang nghiêm nhập, trong tất cả chúng sinh thọ sinh của tất cả bốn thiên hạ phương dưới phương trên khởi.
Giảng: Bồ Tát ở trong chúng thần tất cả biển nhập định, từ trong thuỷ đại tất cả biển xuất định. Trong thuỷ đại tất cả biển nhập định, từ trong địa đại tất cả biển xuất định. Trong địa đại tất cả biển nhập định, từ trong hoả đại tất cả biển xuất định. Trong hoả đại tất cả biển nhập định, từ trong phong đại tất cả biển xuất định. Trong phong đại tất cả biển nhập định, từ trong tất cả bốn thứ đại xuất định. Trong tất cả bốn thứ đại nhập định, từ trong pháp vô sinh xuất định. Trong pháp vô sinh nhập định, từ trong núi Diệu Cao xuất định. Trong núi Diệu Cao nhập định, từ trong núi bảy báu xuất định. Trong núi bảy báu nhập định, từ trong tất cả đất đai đủ thứ cây cỏ lùm rừng hắc sơn khởi. Trong tất cả đất đai đủ thứ cây cỏ lùm rừng hắc sơn nhập định, từ trong tất cả diệu hương hoa báu trang nghiêm xuất định. Trong tất cả diệu hương hoa báu trang nghiêm nhập định, từ trong tất cả chúng sinh thọ sinh của tất cả bốn thiên hạ phương dưới phương trên xuất định.

Nhất thiết tứ thiên hạ hạ phương, thượng phương nhất thiết chúng sanh thọ sanh trung nhập,
Tiểu Thiên thế giới chúng sanh chúng trung khởi; Tiểu Thiên thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
Trung Thiên thế giới chúng sanh chúng trung khởi; Trung Thiên thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
Đại Thiên thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
Đại Thiên thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
Bách thiên ức na-do-tha tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
Bách thiên ức na-do-tha tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
vô số thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
vô số thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
vô lượng thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
vô lượng thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
vô biên Phật sát chúng sanh chúng trung khởi;
vô biên Phật sát chúng sanh chúng trung nhập,
vô đẳng Phật sát chúng sanh chúng trung khởi;
vô đẳng Phật sát chúng sanh chúng trung nhập,
Trong tất cả chúng sinh thọ sinh tất cả bốn thiên hạ phương dưới phương trên nhập, trong chúng sinh tiểu thiên thế giới khởi. Trong chúng sinh tiểu thiên thế giới nhập, trong chúng sinh trung thiên thế giới khởi. Trong chúng sinh trung thiên thế giới nhập, trong chúng sinh đại thiên thế giới khởi. Trong chúng sinh đại thiên thế giới nhập, trong chúng sinh trăm ngàn ức na do tha ba ngàn đại thiên thế giới khởi. Trong chúng sinh trăm ngàn ức Na do tha ba ngàn đại thiên thế giới nhập, trong chúng sinh vô số thế giới khởi. Trong chúng sinh vô số thế giới nhập, trong chúng sinh vô lượng thế giới khởi. Trong chúng sinh vô lượng thế giới nhập, trong chúng sinh vô biên cõi Phật khởi. Trong chúng sinh vô biên cõi Phật nhập, trong chúng sinh vô đẳng cõi Phật khởi. Trong chúng sinh vô đẳng cõi Phật nhập, trong chúng sinh bất khả số thế giới khởi.
Giảng: Bồ Tát ở trong tất cả chúng sinh thọ sinh tất cả bốn thiên hạ phương dưới phương trên nhập định, từ trong chúng sinh tiểu thiên thế giới xuất định. Trong chúng sinh tiểu thiên thế giới nhập định, trong chúng sinh trung thiên thế giới xuất định. Trong chúng sinh trung thiên thế giới nhập định, từ trong chúng sinh đại thiên thế giới xuất định. Trong chúng sinh đại thiên thế giới nhập định, từ trong chúng sinh trăm ngàn ức Na do tha ba ngàn đại thiên thế giới xuất định. Trong chúng sinh trăm ngàn ức Na do tha ba ngàn đại thiên thế giới nhập định, từ trong chúng sinh vô số thế giới xuất định. Trong chúng sinh vô số thế giới nhập định, từ trong chúng sinh vô lượng thế giới xuất định. Trong chúng sinh vô lượng thế giới nhập định, từ trong chúng sinh vô biên cõi Phật xuất định. Trong chúng sinh vô biên cõi Phật nhập định, từ trong chúng sinh vô đẳng cõi Phật xuất định. Trong chúng sinh vô đẳng cõi Phật nhập định, từ trong chúng sinh bất khả số thế giới khởi.

bất khả số thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
bất khả số thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
bất khả xưng thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
bất khả xưng thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
bất khả tư thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
bất khả tư thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
bất khả lượng thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
bất khả lượng thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
bất khả thuyết thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
bất khả thuyết thế giới chúng sanh chúng trung nhập,
bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới chúng sanh chúng trung khởi;
bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới chúng sanh chúng trung nhập, tạp nhiễm chúng sanh chúng trung khởi; tạp nhiễm chúng sanh chúng trung nhập, thanh tịnh chúng sanh chúng trung khởi; thanh tịnh chúng sanh chúng trung nhập, tạp nhiễm chúng sanh chúng trung khởi;
Trong chúng sinh bất khả số thế giới nhập, trong chúng sinh bất khả xưng thế giới khởi. Trong chúng sinh bất khả xưng thế giới nhập, trong chúng sinh bất khả tư thế giới khởi. Trong chúng sinh bất khả tư thế giới nhập, trong chúng sinh bất khả lượng thế giới khởi. Trong chúng sinh bất khả lượng thế giới nhập, trong chúng sinh bất khả thuyết thế giới khởi. Trong chúng sinh bất khả thuyết thế giới nhập, trong chúng sinh bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới khởi. Trong chúng sinh bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới nhập, trong chúng sinh tạp nhiễm khởi. Trong chúng sinh tạp nhiễm nhập, trong chúng sinh thanh tịnh khởi. Trong chúng sinh thanh tịnh nhập, trong chúng sinh tạp nhiễm khởi.
Giảng: Bồ Tát ở trong chúng sinh bất khả số thế giới nhập định, từ trong chúng sinh bất khả xưng thế giới xuất định. Trong chúng sinh bất khả xưng thế giới nhập định, từ trong chúng sinh bất khả tư thế giới xuất định. Trong chúng sinh bất khả tư thế giới nhập định, từ trong chúng sinh bất khả lượng thế giới xuất định. Trong chúng sinh bất khả lượng thế giới nhập định, từ trong chúng sinh bất khả thuyết thế giới xuất định. Trong chúng sinh bất khả thuyết thế giới nhập định, trong chúng sinh bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới xuất định. Trong chúng sinh bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới nhập định, từ trong chúng sinh tạp nhiễm xuất định. Trong chúng sinh tạp nhiễm nhập định, từ trong chúng sinh thanh tịnh xuất định. Trong chúng sinh thanh tịnh nhập định, từ trong chúng sinh tạp nhiễm xuất định.
Đoạn văn này nói về cảnh giới của Bồ Tát, là « không nhập mà chẳng tự được vậy ». Tức cũng là toại tâm như ý, muốn lúc nào nhập định thì lúc đó nhập định. Muốn nơi nào xuất định, thì nơi đó xuất định. Chẳng bị thời gian và không gian hạn chế. Lớn thì như núi Tu Di, nhỏ thì như hạt bụi, tuỳ ý biến hoá, đây là cảnh giới như ý thông của Bồ Tát.
Cảnh giới Kinh Hoa Nghiêm là khai mở tâm chúng sinh rộng lớn từng chút từng chút. Từ một đến mười, từ mười đến trăm, từ trăm đến ngàn, từ ngàn đến vạn, từ vạn đến ức, cho đến vô số vô số, vô lượng vô lượng. Chủ yếu làm cho tư tưởng rộng lớn, phải có cảnh giới «dọc bao thái hư, ngang khắp pháp giới ».
Kinh Hoa Nghiêm nói về thế giới vô lượng, cõi nước vô lượng, chư Phật vô lượng, Bồ Tát vô lượng, tất cả tất cả, đều không có hạn lượng. Cảnh giới đó, chẳng phải người tâm nhỏ lượng nhỏ minh bạch được, hiểu thấu được.
Chúng ta chúng sinh điên điên đảo đảo, lấy phải làm quấy, lấy quấy làm phải, chẳng nhận thức được chủ nhân ông của chính mình. Lấy nhiễm khổ làm vui, bỏ giác hợp trần, nhận giặc làm con, thật là đáng thương ! Bồ Tát rất từ bi đối với chúng ta, giống như mẹ hiền dạy con cái. Cha mẹ hy vọng con trai thành rồng, con gái thành phụng, Bồ Tát thì hy vọng chúng sinh thành Phật, hy vọng chúng sinh không điên đảo, không chấp trước, phát tâm bồ đề, tu vô thượng đạo. Song, chúng sinh chẳng nghe lời, vẫn cứ điên đảo, vẫn cứ chấp trước. Như vậy, chẳng phải là cô phụ một phen khổ tâm của Bồ Tát chăng ? Chúng ta người tu đạo, phải mau hồi đầu, cải ác hướng thiện, nghe lời dạy của Bồ Tát. Toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm Đại Phương Quảng Phật đều nói về đạo lý tu Bồ Tát đạo, độ hoá chúng sinh. Nếu chúng ta như pháp thực hành một câu, một bài kệ, thì công đức vô lượng, thọ không hết.

Nhãn xứ nhập, nhĩ xứ khởi; nhĩ xứ nhập, nhãn xứ khởi; tỳ xứ nhập, thiệt xứ khởi; thiệt xứ nhập,
Tỳ xứ khởi; thân xứ nhập. Ý xứ khởi, Ý xứ nhập,
Thân xứ khởi; Tự xứ nhập. Tha xứ khởi, Tha xứ nhập, Tự xứ khởi;
Nhất vi trần trung nhập,
Vô số thế giới vi trần trung khởi;
Vô số thế giới vi trần trung nhập,
Nhất vi trần trung khởi;
Thanh văn nhập, độc giác khởi;
độc giác nhập, Thanh văn khởi; tự thân nhập,
Phật thân khởi; Phật thân nhập, tự thân khởi; nhất niệm nhập,
ức kiếp khởi; ức kiếp nhập, nhất niệm khởi; đồng niệm nhập, biệt thời khởi; biệt thời nhập,
đồng niệm khởi; tiền tế nhập, hậu tế khởi; hậu tế nhập, tiền tế khởi; tiền tế nhập,
trung tế khởi; trung tế nhập, tiền tế khởi; tam thế nhập, sát-na khởi; sát-na nhập,
tam thế khởi; chân như nhập, ngôn thuyết khởi; ngôn thuyết nhập, chân như khởi.
Nơi mắt nhập, nơi tai khởi. Nơi tai nhập, nơi mắt khởi. Nơi mũi nhập, nơi lưỡi khởi. Nơi lưỡi nhập, nơi mũi khởi. Nơi thân nhập, nơi ý khởi. Nơi ý nhập, nơi thân khởi. Nơi mình nhập, nơi họ khởi. Nơi họ nhập, nơi mình khởi. Trong một hạt bụi nhập, trong hạt bụi vô số thế giới khởi. Trong hạt bụi vô số thế giới nhập, trong một hạt bụi khởi. Thanh Văn nhập, Độc Giác khởi. Độc Giác nhập, Thanh Văn khởi. Thân mình nhập, thân Phật khởi. Thân Phật nhập, thân mình khởi. Một niệm nhập, ức kiếp khởi. Ức kiếp nhập, một niệm khởi. Đồng niệm nhập, thời khác khởi. Thời khác nhập, đồng niệm khởi. Tiền tế nhập, hậu tế khởi. Hậu tế nhập, tiền tế khởi. Tiền tế nhập, trung tế khởi. Trung tế nhập, tiền tế khởi. Ba đời nhập, sát na khởi. Sát na nhập, ba đời khởi. Chân như nhập, ngôn thuyết khởi. Ngôn thuyết nhập, chân như khởi.
Giảng: Bồ Tát nơi mắt nhập định, từ nơi tai xuất định. Nơi tai nhập định, từ nơi mắt xuất định. Nơi mũi nhập định, từ nơi lưỡi xuất định. Nơi lưỡi nhập định, từ nơi mũi xuất định. Nơi thân nhập định, từ nơi ý xuất định. Nơi ý nhập định, từ nơi thân xuất định. Nơi mình nhập định, từ nơi họ xuất định. Nơi họ nhập định, từ nơi mình xuất định.
Bồ Tát ở trong một hạt bụi nhập, từ trong hạt bụi vô số thế giới xuất định. Trong hạt bụi vô số thế giới nhập định, từ trong một hạt bụi xuất định. Thanh Văn nhập định, từ Độc Giác xuất định. Độc Giác nhập định, từ Thanh Văn xuất định. Thân mình nhập định, từ thân Phật xuất định. Thân Phật nhập định, từ thân mình xuất định. Một niệm nhập định, từ ức kiếp xuất định. Ức kiếp nhập định, từ một niệm xuất định. Đồng niệm nhập định, từ thời khác xuất định. Thời khác nhập định, từ đồng niệm xuất định. Tiền tế nhập định, từ hậu tế xuất định. Hậu tế nhập định, tiền tế xuất định. Tiền tế nhập định, từ trung tế xuất định. Trung tế nhập định, từ tiền tế xuất định. Ba đời nhập định, từ sát na xuất định. Sát na nhập định, từ ba đời xuất định. Chân như nhập định, từ ngôn thuyết xuất định. Ngôn thuyết nhập định, từ chân như xuất định.

Phật tử! thí như hữu nhân vi quỷ sở trì, kỳ thân chiến động bất năng tự an, quỷ bất hiện thân lệnh tha thân nhiên. Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội diệc phục như thị, tự thân nhập định tha thân khởi, tha thân nhập định tự thân khởi.
Phật tử ! Ví như có người, bị quỷ nhập, làm cho thân họ rung động, không thể được an. Quỷ không hiện thân, khiến thân họ như vậy. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Thân mình nhập định thân họ khởi. Thân họ nhập định thân mình khởi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như có người, bị quỷ nhập, thân thể của họ rung động không ngừng, không thể được an tĩnh. Quỷ chẳng hiện thân, mà khiến cho người khác phát sinh tình hình như thế, rung động không ngừng. Đại Bồ Tát cũng như thế, chẳng nhìn thấy thân Ngài, mà Ngài có thể ở trên thân của bạn xuất định. Do đó kinh văn có nói : « Tại thân mình nhập định, từ thân người khác xuất định. Tại thân người khác nhập định, từ thân mình xuất định ». Cảnh giới này chẳng chướng ngại nhau.

Phật tử! thí như tử thi dĩ chú lực cố nhi năng khởi hành, tùy sở tác sự giai đắc thành tựu, thi chi dữ chú tuy các sái biệt, nhi năng hòa hợp thành tựu bỉ sự; Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội diệc phục như thị, đồng cảnh nhập định dị cảnh khởi, dị cảnh nhập định đồng cảnh khởi.
Phật tử ! Ví như tử thi, vì nhờ lực của Chú mà có thể dậy đi, tuỳ theo các việc đều làm được. Tử thi và Chú tuy đều khác biệt, mà có thể hoà hợp, thành tựu việc đó. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Đồng cảnh nhập định, mà khác cảnh khởi. Khác cảnh nhập định, mà đồng cảnh khởi.
Giảng: Các vị Phật tử !Ví như tử thi, nhờ sức lực của Chú ngữ, mà có thể khiến cho tử thi dậy đi. Tử thi tuy chẳng còn tri giác, nhưng có thể thay thế bạn làm việc, những việc làm đều thành tựu. Tử thi và Chú tuy đều khác biệt, nhưng Chú ngữ có thể khiến cho tử thi đi được, lại có thể hợp tác với nhau, thành tựu việc làm đó. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. « Đồng cảnh nhập định, mà khác cảnh xuất định. Khác cảnh nhập định, mà đồng cảnh xuất định ». Cảnh giới này chẳng có chướng ngại nhau.

Phật tử! thí như Tỳ-kheo đắc tâm tự tại, hoặc dĩ nhất thân tác đa thân, hoặc dĩ đa thân tác nhất thân, phi nhất thân một đa thân sanh, phi đa thân một nhất thân sanh; Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội diệc phục như thị, nhất thân nhập định đa thân khởi, đa thân nhập định nhất thân khởi.
Phật tử ! Ví như Tỳ Kheo, đắc được tâm tự tại. Hoặc dùng một thân làm nhiều thân, hoặc dùng nhiều thân làm một thân. Chẳng phải một thân chẳng còn, mà nhiều thân sinh. Chẳng phải nhiều thân chẳng còn, mà một thân sinh. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Một thân nhập định nhiều thân khởi, nhiều thân nhập định một thân khởi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như Tỳ Kheo, đắc được như ý thông, tức là toại tâm như ý, biến hoá vô cùng. Hoặc dùng một thân mà biến thành nhiều thân, hoặc dùng nhiều thân mà biến thành một thân. Chẳng phải nói thân này chẳng còn mà sinh ra nhiều thân. Cũng chẳng phải nhiều thân chẳng còn, lại làm một thân. Đây là cảnh giới thần thông biến hoá không thể nghĩ bàn. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. « Một thân nhập định nhiều thân xuất định, nhiều thân nhập định một thân xuất định ». Cảnh giới này chẳng chướng ngại nhau.
Tỳ kheo có ba ý nghĩa :
1. Khất sĩ : Trên khất pháp của chư Phật, để nuôi huệ mạng; dưới khất thực của chúng sinh, để nuôi dưỡng sắc thân.
2. Bố ma : Khi Tỳ Kheo thọ giới cụ túc, đắc giới hoà thượng hỏi :
– « Ông có phải là đại trượng phu không ? »
– Đáp : « Là đại trượng phu ».
– Lại hỏi : « Ông có phát bồ đề tâm chăng ? »
– Đáp : « Đã phát bồ đề tâm ».
Lúc đó, ma vương nghe được, bèn sinh sợ hãi. Tại sao ? Vì quyến thuộc của ma lại bớt đi một người, còn quyến thuộc của Phật lại thêm một người, cho nên sinh tâm sợ hãi.
3. Phá ác : Tức là phá phiền não ác. Vì Tỳ Kheo có ba ý nghĩa này, nên không dịch. Khi Trung Quốc phiên dịch kinh điển tiếng Phạn, có năm loại không dịch :
1. Bí mật không dịch : Như Chú ngữ.
2. Tôn trọng không dịch : Như « Bát Nhã », « Bồ đề ».
3. Thuận cổ không dịch : Như « A nậu đa la tam miệu tam bồ đề ».
4. Đa hàm không dịch : Như « Tỳ Kheo ».
5. Thử phương vô bất dịch : Như « quả Am ma la ».

Phật tử! thí như Đại địa kỳ vị nhất chủng, sở sanh cây cỏ chủng chủng vị biệt, địa tuy vô sái biệt, nhiên vị hữu thù dị; Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội diệc phục như thị, vô sở phân biệt, nhiên hữu nhất chủng nhập định đa chủng khởi, đa chủng nhập định nhất chủng khởi.
Phật tử ! Ví như đại địa, chỉ có một vị, mà sinh ra cây cỏ đủ thứ vị khác nhau. Tuy đất không khác nhau, mà vị có sự khác nhau đặc thù. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế, không có sự phân biệt, mà có một thứ nhập định nhiều thứ khởi, nhiều thứ nhập định một thứ khởi.
Giảng: Các vị Phật tử !Ví như đại địa, tuy chỉ có một vị, mà sinh ra cây cỏ đủ thứ vị khác nhau. Có vị đắng, có vị ngọt, có vị chua. Đất không khác nhau, mà sinh ra thực vật có vị khác nhau. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế, không có gì phân biệt, mà « Tại một thứ nhập định, từ nhiều thứ xuất định, tại nhiều thứ nhập định, một thứ xuất định ». Cảnh giới này chẳng chướng ngại nhau.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, đắc thập chủng xưng tán Pháp chi sở xưng tán. hà giả vi thập? Sở vị: nhập chân như cố, danh vi Như Lai; giác nhất thiết pháp cố, danh chi vi Phật; vi nhất thiết thế gian sở xưng tán cố, danh vi Pháp sư; tri nhất thiết pháp cố, danh nhất thiết trí; vi nhất thiết thế gian sở quy y cố, danh sở y xứ; liễu đạt nhất thiết pháp phương tiện cố, danh vi Đạo sư; dẫn nhất thiết chúng sanh nhập Tát bà nhã đạo cố, danh đại đạo sư; vi nhất thiết thế gian đăng cố, danh vi quang minh; tâm chí viên mãn, nghĩa lợi thành tựu, sở tác giai biện, trụ vô ngại trí, phân biệt liễu tri nhất thiết chư pháp cố, danh vi thập lực tự tại; thông đạt nhất thiết pháp luân cố, danh nhất thiết kiến giả. Thị vi thập.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, đắc được mười pháp khen ngợi của sự khen ngợi. Những gì là mười ? Đó là : Vì vào chân như, nên gọi là Như Lai. Vì giác tất cả pháp, nên gọi là Phật. Vì được tất cả thế gian khen ngợi, nên gọi là pháp sư. Vì biết tất cả pháp, nên gọi là Nhất thiết trí. Vì là chỗ nương tựa của tất cả thế gian, nên gọi là chỗ nương tựa. Vì thấu đạt tất cả pháp phương tiện, nên gọi là Đạo sư. Vì dẫn dắt tất cả chúng sinh vào đạo Tát bà nhạ, nên gọi là đại Đạo sư. Vì làm đèn của tất cả thế gian, nên gọi là quang minh. Vì tâm chí viên mãn, nghĩa lợi thành tựu, những gì cần làm đã làm xong, trụ trí huệ vô ngại, phân biệt biết rõ tất cả các pháp, nên gọi là Thập lực. Vì tự tại thông đạt tất cả pháp luân, nên gọi là bậc thấy tất cả. Đó là mười.
Giảng: Các vị Phật tử !Đại Bồ Tát trụ nơi tam muội này, đắc được mười pháp khen ngợi của sự khen ngợi. Những gì là mười ? Đó là :
1. Vì vào chân như, nên gọi là Như Lai : Vì Bồ Tát chứng nhập chân như thật tướng lý thể, cho nên gọi là Như Lai.
2. Vì giác tất cả pháp, nên gọi là Phật : Vì Bồ Tát giác ngộ thấu rõ tất cả các pháp, cho nên xưng là Phật.
3. Vì được tất cả thế gian khen ngợi, nên gọi là pháp sư : Vì Bồ Tát có tâm từ bi, độ khắp chúng sinh, được hết thảy mọi người thế gian khen ngợi, cho nên xưng là Pháp sư.
4. Vì biết tất cả pháp, nên gọi là Nhất thiết trí : Vì Bồ Tát biết rõ tất cả Phật pháp, cho nên xưng là Nhất thiết trí.
5. Vì là chỗ nương tựa của tất cả thế gian, nên gọi là chỗ nương tựa : Vì Bồ Tát là chỗ nương tựa của tất cả chúng sinh thế gian, cho nên xưng là chỗ nương tựa.
6. Vì thấu đạt tất cả pháp phương tiện, nên gọi là Đạo sư : Vì Bồ Tát thấu rõ thông đạt tất cả tất cả pháp phương tiện, cho nên xưng là Đạo sư.
7. Vì dẫn dắt tất cả chúng sinh vào đạo Tát bà nhạ, nên gọi là đại Đạo sư : Vì Bồ Tát dẫn dắt tất cả chúng sinh đều vào đạo Tát bà nhạ (Nhất thiết trí), cho nên xưng là đại Đạo sư.
8. Vì làm đèn của tất cả thế gian, nên gọi là quang minh : Vì Bồ Tát là đèn quang minh của tất cả thế gian, cho nên xưng là quang minh.
9. Vì tâm chí viên mãn, nghĩa lợi thành tựu, những gì cần làm đã làm xong, trụ trí huệ vô ngại, phân biệt biết rõ tất cả các pháp, nên gọi là Thập lực : Vì tâm chí của Bồ Tát đã viên mãn, nghĩa lợi đã thành tựu, những gì cần làm đã làm xong, chẳng còn thọ thân sau nữa, trụ nơi trí huệ không có chướng ngại, phân biệt biết rõ được tất cả các pháp, cho nên xưng là Thập lực.
10. Vì tự tại thông đạt tất cả pháp luân, nên gọi là bậc Thấy tất cả : Vì Bồ Tát tự tại thông đạt tất cả pháp luân, cho nên xưng là bậc Thấy tất cả. Đó là mười pháp khen ngợi.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, phục đắc thập chủng quang minh chiếu diệu. Hà giả vi thập? Sở vị: đắc nhất thiết chư Phật quang minh, dữ bỉ bình đẳng cố; đắc nhất thiết thế giới quang minh, phổ năng nghiêm tịnh cố; đắc nhất thiết chúng sanh quang minh, tất vãng điều phục cố; đắc vô lượng vô úy quang minh, Pháp giới vi trường diễn thuyết cố; đắc vô sái biệt quang minh, tri nhất thiết pháp vô chủng chủng tánh cố; đắc phương tiện quang minh, ư nhất thiết Pháp ly dục tế nhi chứng nhập cố; đắc chân thật quang minh, ư nhất thiết Pháp ly dục tế tâm bình đẳng cố; đắc biến nhất thiết thế gian thần biến quang minh, mông Phật sở gia hằng bất tức cố; đắc thiện tư duy quang minh, đáo nhất thiết Phật tự tại ngạn cố; đắc nhất thiết pháp chân như quang minh, ư nhất mao khổng trung thiện thuyết nhất thiết cố. Thị vi thập.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội nầy, lại được mười thứ quang minh chiếu sáng. Những gì là mười ?
Đó là : Được quang minh của tất cả chư Phật, vì bình đẳng với chư Phật. Được quang minh của tất cả thế giới, vì nghiêm tịnh khắp. Được quang minh của tất cả chúng sinh, vì đều đến điều phục. Được vô lượng vô uý quang minh, vì pháp giới làm đạo tràng diễn nói. Được quang minh không khác biệt, vì biết tất cả pháp không có các thứ tánh. Được quang minh phương tiện, vì nơi tất cả pháp lìa dục tế mà chứng nhập. Được quang minh chân thật, vì nơi tất cả pháp lìa dục tế tâm bình đẳng. Được quang minh khắp tất cả thế gian thần thông biến hoá, vì được Phật gia trì luôn không ngừng nghỉ. Được quang minh khéo tư duy, vì đến được bờ tự tại của tất cả chư Phật. Được quang minh tất cả pháp chân thật, vì trong một lỗ lông khéo nói tất cả. Đó là mười.
Giảng: Các vị Phật tử !Đại Bồ Tát trụ tam muội này, lại đắc được mười thứ quang minh chiếu sáng. Những gì là mười ? Đó là :
1. Bồ Tát đắc được quang minh của tất cả chư Phật, vì bình đẳng với chư Phật.
2. Bồ Tát đắc được quang minh của tất cả thế giới, vì trang nghiêm thanh tịnh khắp tất cả thế giới.
3. Bồ Tát đắc được quang minh của tất cả chúng sinh, vì đều đến điều phục tất cả chúng sinh.
4. Bồ Tát đắc được vô lượng vô uý quang minh, vì dùng pháp giới làm đạo tràng diễn nói diệu pháp.
5. Bồ Tát đắc được quang minh không phân biệt, vì biết tất cả pháp không có các thứ tự tánh.
6. Bồ Tát đắc được quang minh phương tiện, vì đối với tất cả pháp lìa khỏi dục tế, mà chứng nhập chân như.
7. Bồ Tát đắc được quang minh chân thật, vì nơi tất cả pháp lìa dục tế tâm và pháp là bình đẳng.
8. Bồ Tát đắc được quang minh khắp tất cả thế gian thần thông biến hoá, vì được Phật gia trì luôn không ngừng nghỉ.
9. Bồ Tát đắc được quang minh khéo tư duy, vì đạt đến được bờ bên kia tự tại của tất cả chư Phật.
10. Bồ Tát đắc được quang minh tất cả pháp chân thật, vì trong một lỗ lông khéo nói tất cả các pháp. Đó là mười thứ quang minh.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, phục đắc thập chủng vô sở tác. hà giả vi thập? Sở vị: thân nghiệp vô sở tác, ngữ nghiệp vô sở tác, ý nghiệp vô sở tác, thần thông vô sở tác, liễu Pháp Vô tánh vô sở tác, tri nghiệp bất hoại vô sở tác, vô sái biệt trí vô sở tác, vô sanh khởi trí vô sở tác, tri Pháp vô diệt vô sở tác, tùy thuận ư văn bất hoại ư nghĩa vô sở tác. Thị vi thập.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, lại được mười thứ vô sở tác. Những gì là mười ? Đó là : Thân nghiệp vô sở tác, lời nghiệp vô sở tác, ý nghiệp vô sở tác, thần thông vô sở tác, rõ pháp không tánh vô sở tác, biết nghiệp chẳng hư hoại vô sở tác, trí vô sai biệt vô sở tác, trí không sinh khởi vô sở tác, biết pháp không diệt vô sở tác, tuỳ thuận nơi văn chẳng hoại nơi nghĩa vô sở tác. Đó là mười.
Giảng: Các vị Phật tử !Đại Bồ Tát trụ tam muội này, lại được mười thứ nghiệp vô sở tác, tức cũng là mười thứ thanh tịnh, cũng có thể nói là mười thứ pháp tịch diệt. Những gì là mười ? Đó là :
1. Thân nghiệp vô sở tác : Tức là thân thanh tịnh không ô nhiễm
2. Lời nghiệp vô sở tác : Tức là miệng thanh tịnh không nhiễm ô.
3. Ý nghiệp vô sở tác : Tức là ý thanh tịnh không nhiễm.
4. Thần thông vô sở tác : Thần thông vốn là thanh tịnh, không có sở tác.
5. Rõ pháp không tánh vô sở tác : Thấu được tất cả pháp chẳng có tự tánh, chẳng có sở tác.
6. Biết nghiệp chẳng hư hoại vô sở tác : Biết được tất cả nghiệp thiện không hư hoại, chẳng có sở tác.
7. Trí vô sai biệt vô sở tác : Trí huệ chẳng có sự phân biệt, thông đạt được tất cả, đây cũng là vô sở tác.
8. Trí không sinh khởi vô sở tác : Trí huệ chẳng có sinh khởi, mà biết rõ tất cả, đây cũng là vô sở tác.
9. Biết pháp không diệt vô sở tác : Vì Bồ Tát biết các pháp không sinh không diệt, cho nên vô sở tác.
10. Tuỳ thuận nơi văn chẳng hoại nơi nghĩa vô sở tác : Vì Bồ Tát hay tuỳ thuận nơi câu văn, lại chẳng hoại nơi nghĩa lý, cho nên vô sở tác.
Đó là mười thứ nghiệp vô sở tác.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, vô lượng cảnh giới chủng chủng sái biệt. Sở vị: nhất nhập đa khởi, đa nhập nhất khởi; đồng nhập dị khởi, dị nhập đồng khởi; tế nhập thô khởi, thô nhập tế khởi; Đại nhập tiểu khởi, tiểu nhập Đại khởi; thuận nhập nghịch khởi, nghịch nhập thuận khởi; vô thân nhập hữu thân khởi, hữu thân nhập vô thân khởi; vô tướng nhập hữu tướng khởi, hữu tướng nhập vô tướng khởi; khởi trung nhập, nhập trung khởi. Như thị giai thị thử chi tam muội tự tại cảnh giới.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ nơi tam muội này, có vô lượng cảnh giới, đủ thứ sự khác biệt. Đó là : Một nhập nhiều khởi, nhiều nhập một khởi. Đồng nhập khác khởi, khác nhập đồng khởi. Tế nhập thô khởi, thô nhập tế khởi. Đại nhập tiểu khởi, tiểu nhập đại khởi. Thuận nhập nghịch khởi, nghịch nhập thuận khởi. Không thân nhập có thân khởi, có thân nhập không thân khởi. Không tướng nhập có tướng khởi, có tướng nhập không tướng khởi. Trong khởi nhập trong nhập khởi. Như vậy đều là cảnh giới tự tại của tam muội này.
Giảng: Các vị Phật tử !Đại Bồ Tát trụ nơi tam muội này, lại có vô lượng cảnh giới, đủ thứ sự khác biệt. Đó là : Tại một nhập định, từ nhiều xuất định. Tại nhiều nhập định, từ một xuất định. Tại đồng nhập định, từ khác xuất định. Tại khác nhập định, từ đồng xuất định. Tại tế nhập định, từ thô xuất định. Tại thô nhập định, từ tế xuất định. Tại đại nhập định, từ tiểu xuất định. Tại tiểu nhập định, từ đại xuất định. Tại thuận nhập định, từ nghịch xuất định. Tại nghịch nhập định, từ thuận xuất định. Tại không thân nhập định, từ có thân xuất định. Tại có thân nhập định, từ không thân xuất định. Tại không tướng nhập định, từ có tướng xuất định. Tại có tướng nhập định, từ không tướng xuất định. Tại trong khởi nhập định, từ trong nhập xuất định. Nhập định xuất định như vậy đều không ngại nhau. Đó là cảnh giới tự tại của tam muội này

Phật tử! thí như huyễn sư, trì chú đắc thành, năng hiện chủng chủng sái biệt hình tướng; chú dữ huyễn biệt nhi năng tác huyễn, chú duy thị thanh nhi năng huyễn tác nhãn thức sở tri chủng chủng chư sắc, nhĩ thức sở tri chủng chủng chư thanh, tị thức sở tri chủng chủng chư hương, thiệt thức sở tri chủng chủng chư vị, thân thức sở tri chủng chủng chư xúc, ý thức sở tri chủng chủng cảnh giới. Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội diệc phục như thị, đồng trung nhập định dị trung khởi, dị trung nhập định đồng trung khởi.
Phật tử ! Ví như nhà huyễn thuật, trì chú được thành tựu, có thể hiện ra đủ thứ hình tướng khác nhau. Chú với huyễn khác nhau, mà làm huyễn được. Tuy chú là tiếng, mà có thể huyễn làm nhãn thức biết đủ thứ các sắc, nhĩ thức biết được đủ thứ các tiếng, tĩ thức biết được đủ thứ các mùi, thiệt thức biết được đủ thứ các vị, thân thức biết được đủ thứ các súc, ý thức biết được đủ thứ cảnh giới.
Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Trong đồng nhập định trong khác khởi, trong khác nhập định trong đồng khởi.
Giảng: Các Phật tử !Ví như nhà huyễn thuật trì chú ngữ, có thể tự không hoá có, tự có hoá không, có thể hiện ra đủ thứ hình tướng khác nhau. Giống như một bình không có rượu, ông ta niệm chú thì trong bình tự nhiên có rượu. Lại đem một hạt giống hoa, trồng xuống đất, lập tức đâm chồi nảy mầm, ra cành ra lá, đơm hoa kết trái, trong khoảnh khắc liền thành tựu. Lại có thể ở trong lửa sinh ra hoa sen rất đẹp. Cảnh giới này, đều do huyễn tướng trì chú mà hiện ra. Chú và huyễn tướng tuy khác nhau, nhưng chú có thể làm huyễn tướng. Niệm chú chỉ là âm thanh, mà làm ra đủ thứ cảnh giới hư vọng – nhãn thức biết đủ thứ các màu sắc, nhĩ thức biết được đủ thứ các tiếng, tĩ thức biết được đủ thứ các mùi, thiệt thức biết được đủ thứ các vị, thân thức biết được đủ thứ các súc, ý thức biết được đủ thứ cảnh giới. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Ở trong đồng nhập định, từ trong khác xuất định, ở trong khác nhập định, từ trong đồng xuất định. Đây là cảnh giới xuất định nhập định toại tâm như ý không thể nghĩ bàn.

Phật tử! thí như tam thập tam thiên cọng A-tu-la đấu chiến chi thời, chư Thiên đắc thắng, tu La thoái nục; A-tu-la Vương kỳ thân trường đại thất bách do-tuần, tứ binh vi nhiễu vô số thiên vạn, dĩ huyễn thuật lực tướng chư quân chúng, đồng thời tẩu nhập ngẫu ti khổng trung. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ thiện thành tựu chư huyễn trí địa, huyễn trí tức thị Bồ Tát, Bồ Tát tức thị huyễn trí, thị cố năng ư vô sái biệt Pháp trung nhập định, sái biệt Pháp trung khởi, sái biệt Pháp trung nhập định, vô sái biệt Pháp trung khởi.
Phật tử ! Ví như khi trời Ba Mươi Ba đánh nhau với A tu la, chư Thiên thắng lợi, A tu la thua trận. Vua A tu la thân cao lớn bảy trăm do tuần, bốn binh vây quanh vô số ngàn vạn, dùng sức huyễn thuật, đem tất cả quân lính cùng nhau chạy trốn trong lỗ ngó sen. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, đã khéo thành tựu các huyễn trí địa. Huyễn trí tức là Bồ Tát, Bồ Tát tức là huyễn trí. Cho nên, có thể ở trong pháp không phân biệt nhập định, ở trong pháp phân biệt khởi. Ở trong pháp phân biệt nhập định, ở trong pháp không phân biệt khởi.
Giảng: Các vị Phật tử !Ví như khi Đế Thích trời Ba Mươi Ba đánh nhau với A tu la, thì chư Thiên thường thắng lợi. Có lúc A tu la chiến thắng, trời Đế Thích không cách nào kháng cự, bèn đến chỗ đức Phật cầu cứu. Đức Phật nói cho ông ta một câu chú, niệm : « Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa », dịch ra nghĩa là « Đại trí huệ đến bờ kia ». Ma Ha nghĩa là « Đại », Bát Nhã là « Trí huệ », Ba La Mật Đa là « Đến bờ kia ». Đế Thích trở về trời Ba Mươi Ba, bèn nói với binh trời tướng trời rằng : « Khi các vị gặp binh lính A tu la, thì hãy thành tâm niệm ‘‘Ma Ha Mát Nhã Ba La Mật Đa’’, đây là pháp mà đức Phật ban tặng để đánh lui quân địch ».
Ngày thứ hai lại đánh với A tu la. Binh trời tướng trời đều niệm câu chú này quả nhiên linh nghiệm, binh lính A tu la thua bỏ chạy. Tại sao ? Vì binh trời tướng trời thân đều phóng ra ánh sáng rất mạnh, binh lính A tu la không thể nào mở mắt ra được, cho nên bại trận bỏ chạy.
A tu la dịch là « Vô đoan chánh », vì tướng mạo của người nam rất là xấu xí, ngũ quan chẳng đoan chánh. Song, nữ A tu la rất xinh đẹp, ai thấy cũng đều thương mến. Vợ đẹp của trời Đế Thích là con gái của vua A tu la. Do đó, có thể biết người trời vẫn còn dục tham luyến sắc đẹp. Chư Thiên đến được cõi sắc giới, mới dứt được sắc dục. Người ở cõi sắc giới là hoá sinh, chỉ có diệu sắc thân, chứ chẳng còn nam nữ khác nhau.
Vua A tu la thân cao lớn bảy trăm đại do tuần, lại có bốn thứ binh (tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh) vây quanh vô số ngàn vạn. Vua A tu la dùng sức huyễn thuật, đem tất cả quân lính cùng nhau chạy trốn trong lỗ ngó sen. Đây là cảnh giới lớn nhỏ vô ngại, tức cũng là cảnh giới trong lớn có thể hiện nhỏ, trong nhỏ có thể dung lớn, dung nạp với nhau không ngại. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì tu hành căn lành, cho nên thành tựu tất cả huyễn trí địa, tức cũng là trí huệ thần thông. Huyễn trí tức là Bồ Tát, Bồ Tát tức là huyễn trí. Vì vậy cho nên, có thể ở trong pháp không phân biệt nhập định, từ trong pháp phân biệt xuất định. Ở trong pháp phân biệt nhập định, từ trong pháp không phân biệt xuất định. Đó là thần thông diệu dụng của Bồ Tát tu, đã đạt đến cảnh giới nhậm vận tự tại. Tóm lại, muốn như thế nào thì như thế đó, chẳng có mọi sự chướng ngại. Đó là do trí huệ biến hoá, chứ chẳng phải do thức biến hoá.

Phật tử! thí như nông phu điền trung hạ chủng, chủng tử tại hạ, quả sanh ư thượng. Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội diệc phục như thị, nhất trung nhập định đa trung khởi, đa trung nhập định nhất trung khởi.
Phật tử ! Ví như nông phu, trong ruộng gieo giống xuống, hạt giống ở dưới, quả sinh ở trên. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Trong một nhập định, trong nhiều khởi. Trong nhiều nhập định, trong một khởi.
Giảng: Các vị Phật tử !Ví như nông phu, trong ruộng đất gieo hạt giống ngũ cốc xuống, trồng hạt giống ở dưới đất, quả thật sinh trưởng ở trên đất. Đây là luật nhân quả tự nhiên. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Có thể ở trong thân một chúng sinh nhập định, từ trong thân nhiều chúng sinh xuất định. Ở trong thân nhiều chúng sinh nhập định, từ trong một thân chúng sinh xuất định, chẳng có chướng ngại.

Phật tử! thí như nam nữ xích bạch hòa hợp, hoặc hữu chúng sanh ư trung thọ sanh, nhĩ thời danh vi: Ca la lá vị, tòng thử thứ đệ, trụ mẫu thai trung, mãn túc thập nguyệt; thiện nghiệp lực cố, nhất thiết chi phần giai đắc thành tựu, chư căn bất khuyết, tâm ý minh liễu; kỳ Ca la lá dữ bỉ lục căn thể trạng các biệt, dĩ nghiệp lực cố, nhi năng lệnh bỉ thứ đệ thành tựu, thọ đồng dị loại chủng chủng quả báo.
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, tùng nhất thiết trí Ca la lá vị, tín giải nguyện lực tiệm thứ tăng trưởng; kỳ tâm quảng đại, nhâm vận tự tại, vô trung nhập định hữu trung khởi, hữu trung nhập định vô trung khởi.
Phật tử ! Ví như tinh cha huyết mẹ của nam nữ hoà hợp, hoặc có chúng sinh ở trong đó thọ sinh. Bấy giờ, gọi là Ca la lã vị. Từ đây lần lược trụ ở trong thai mẹ, đầy đủ mười tháng. Do sức nghiệp thiện, nên tất cả chi phần đều được thành tựu, các căn không thiếu, tâm ý sáng tỏ. Ca la lã với sáu căn, thể tướng đều khác nhau. Do nghiệp lực, khiến cho lần lược thành tựu, thọ đủ thứ các loại quả báo khác nhau.
Bồ Tát cũng lại như thế, từ Nhất thiết trí Ca la lã vị, tin hiểu nguyện lực, dần dần tăng trưởng. Tâm của Bồ Tát rộng lớn, nhậm vận tự tại. Trong không nhập định, trong có khởi. Trong có nhập định, trong không khởi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như khi tinh cha huyết mẹ của nam nữ hoà hợp, hoặc có một thân trung ấm thọ sinh. Lúc đó, thức thọ sinh gọi là Ca la lã vị. Từ đó bắt đầu lần lược sống, đầy đủ mười tháng, sinh ra thế gian này, tiếp thọ các sự khổ, nhưng chúng sinh vẫn cứ lấy khổ làm vui.
Lược thuật quá trình của đời người là : Trước hết bắt đầu từ vô minh, vô minh tức là vọng tâm tham ái của nam nữ. Vô minh duyên hành : Hành tức là tánh hành vi. Nam nữ yêu nhau kết thành vợ chồng, để nối dõi giống nòi, nên có hành vi này. Hành duyên thức : Thức tức là bào thai, tinh cha huyết mẹ kết tinh thể, tức cũng là nơi ký thác thọ sinh của thân trung ấm. Thức duyên danh sắc : Bào thai ở trong bụng mẹ sinh ra hệ thống thần kinh (danh), còn sinh ra nhục thể (sắc). Danh sắc duyên lục nhập : Tức nhiên có trạng thái tâm lý và sinh lý, thì đương nhiên sinh ra sáu căn, tức cũng là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Lục nhập duyên súc : Súc là súc giác, tức cũng là có sự tác dụng của tri giác. Khi đứa bé sinh ra thì da tiếp súc với không khí, biết cảm giác lạnh nóng. Súc duyên thọ : Có tiếp súc thì có cảm thọ, cảm thấy thọ tốt thì đi tranh lấy. Thọ duyên ái : Vì lãnh thọ tất cả tốt đẹp, nên tăng thêm tâm ái. Ái duyên thủ : Có tâm ái rồi, thì tìm hết biện pháp, hết tâm sức để tranh lấy, chiếm làm sở hữu của mình. Thủ duyên hữu : Vì thủ lấy, nên tạo ba nghiệp thân, khẩu, ý. Có nghiệp tạo rồi, bèn có hạt giống thọ sinh. Hữu duyên sinh : Do đó : « Khởi hoặc, tạo nghiệp, thọ báo ». Vì nhất thời hồ đồ, bèn tạo ra nghiệp thọ sinh, nên có quả báo lai sinh. Sinh duyên lão tử : Lai sinh có thân năm uẩn, thì đương nhiên có sự uy hiếp lão tử. Từ nhỏ lớn lên thành thiếu niên, từ thiếu niên thành thanh niên, từ thanh niên rồi già, do già rồi chết đi – đó là quá trình đời người phải đi qua, bất cứ người nào cũng không tránh khỏi. Đây là luật nhân quả ba đời tuần hoàn, sinh sinh tử tử, tử tử sinh sinh, từ vô thuỷ kiếp đến nay, vĩnh viễn không dứt được gốc, đó là vòng mười hai nhân duyên sinh mạng.
Người tu đạo tức là dứt sinh tử, không thọ khổ luân hồi. Làm thể nào để dứt sinh tử ? Chỉ có một phương pháp, tức là niệm « Nam Mô A Di Đà Phật », niệm đến lúc nhất tâm bất loạn, thì có thể đới nghiệp vãng sinh về thế giới Cực Lạc, hoa nở thấy Phật. Ở đó hoa sen hoá sinh, chẳng có con nít, chỉ hiện thân thể chín phẩm thành người. Ngoài ra còn có một phương pháp chấm dứt sinh tử đó là tham thiền. Tham đến cảnh giới tứ thiền, chẳng biết đủ mà dừng lại, đó vẫn là cảnh giới của phàm phu. Phải tiếp tục dụng công phu tiến về trước, trải qua trời Ngũ Bất Hoàn, lúc đó vượt qua trời Tứ Không, mà ra khởi tam giới, sẽ dứt được phần đoạn sinh tử.
Bây giờ đưa ra một vấn đề, để mọi người cùng nhau nghiên cứu : Tại sao người nam thương người nữ ? Người nữ thương người nam ? Có người nói : « Đây là thiên tính ! Khổng Tử đã từng nói : ‘’Tánh tham sắc vậy’’, đây là tham dục của con người ». Bởi nhân duyên này, cho nên chúng sinh do sắc dục mà sinh, do sắc dục mà chết. Ai phá được ải sắc dục, đoạn dục khử ái, thì không bị mười hai nhân duyên ràng buộc, sẽ được giải thoát.
Con người sinh ra thế giới này, đều là có nhân duyên. Có người có duyên lành đến làm cha con, hoặc mẹ con. Có người có báo oán đến làm cha con, hoặc mẹ con. Cho nên, có những con cái đến trả nợ, cũng có những con cái đến đòi nợ, do đó :
« Không con, không cái, không oan gia ».
Nếu nói về nhân quả, thì có những sự việc hoàn toàn chân thật. Nay đưa ra một câu chuyện để tham khảo.
Phong tục nhân gian trước kia, hễ có lễ cưới, sinh con, đám ma .v.v…đều thỉnh mời mấy Thầy đến tụng kinh. Mục đích là để được cát tường như ý, tiêu tai sống lâu, vãng sinh về Cực Lạc. Một ngày nọ, hoà thượng Xã Thuận (sơ tổ của tông Hoa Nghiêm) đến nhà trai chủ ứng cúng. Thọ trai xong, vợ chồng trai chủ bồng em bé đến trước mặt hoà thượng, thỉnh hoà thượng từ bi gia trì cho em bé, muốn cho em bé được sống lâu giàu có. Hoà thượng dùng pháp nhãn quán sát, biết nhân duyên của đứa bé, đứa bé đó đến để đòi nợ, vì muốn cho đôi bên giải trừ oán cừu, hoà thượng bèn kêu vợ chồng trai chủ bồng đứa bé đến bờ sông. Hoà thượng ôm đứa bé liệng xuống sông.
Lúc đó, vợ chồng trai chủ khóc lóc, kêu hoà thượng đòi con lại. Hoà thượng nói với họ rằng : « Các vị hãy trở về nhìn con của các vị đi » ! Vợ chồng trai chủ trở về nhìn xem, thì ở trong nước hiện ra thân một người nam, trợn mắt nói với vợ chồng đó rằng : « Ai là con của các vị ! Ba năm trước, tôi là người buôn bán, ngồi thuyền của các vị qua sông, các vị thấy tôi có tiền, bèn sinh tâm bất lương, giết tôi cướp tiền của. Khi thuyền đến giữa sông, bèn xô tôi té xuống sông, để chiếm đoạt tài vật của tôi. Đời này tôi đến để đòi nợ, nay may mắn gặp hoà thượng từ bi, hoà giải cho chúng ta. Bằng không, nhất định tôi sẽ làm hại quý vị nhà tan người mất ». Nói xong không thấy tông tích nữa. Lúc đó, vợ chồng như ngây như dại, rất là hổ thẹn. Bèn kính thỉnh hoà thượng Xã Thuận làm pháp hội Thuỷ Lục Không, siêu độ cô hồn dã quỷ, đều được vãng sinh. Từ đó về sau, vợ chồng tụng kinh lễ Phật, ăn chay suốt đời.
Thai nhi ở trong bụng mẹ, mãn mười tháng, do sức nghiệp thiện, nên ngũ quan tứ chi, tất cả đều được đầy đủ. Ngũ tạng lục phủ đều thành tựu, các căn không thiếu. Tâm ý minh bạch tất cả sự lý. Ca la lã vị này với sáu căn, thể tướng đều khác nhau. Do nghiệp lực thiện đã tạo ra trong kiếp trước, khiến cho lần lược thành tựu thai nhi, thọ đồng loại (người), hoặc loài khác (súc sinh) đủ thứ các loại quả báo khác nhau.
Bồ Tát tu Bồ Tát đạo, viên mãn lục độ vạn hạnh cũng lại như thế, từ Nhất thiết trí ca la lã vị, vì có nguyện lực tin hiểu, dần dần tăng trưởng. Tâm của Bồ Tát đặc biệt rộng lớn, nhậm vận tự tại, tất cả đều toại tâm như ý. Cảnh giới này, chẳng có tơ hào chướng ngại. Ở trong chân không nhập định, từ trong diệu hữu xuất định. Ở trong diệu hữu nhập định, từ trong chân không xuất định, không có chướng ngại.

Phật tử! thí như long cung y địa nhi lập, bất y hư không, long y cung trụ, diệc bất tại không, nhi năng hưng vân biến mãn không trung; hữu nhân ngưỡng thị sở kiến cung điện, đương tri giai thị càn thát bà thành, phi thị long cung.
Phật tử! long tuy xứ hạ nhi vân bố thượng. Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội diệc phục như thị, ư vô tướng nhập hữu tướng khởi, ư hữu tướng nhập vô tướng khởi.
Phật tử ! Ví như cung rồng, nương đất mà lập, chẳng nương hư không. Rồng nương cung điện mà ở, cũng chẳng phải ở trong hư không, mà hay nổi mây đầy khắp trong hư không. Có người ngước nhìn thấy cung điện. Nên biết đó là thành của Càn Thát Bà, chẳng phải cung rồng.
Phật tử ! Rồng tuy ở dưới thấp, còn mây giăng trên trời. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Nơi không tướng nhập, có tướng khởi. Nơi có tướng nhập, không tướng khởi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như cung điện rồng ở trong biển, nương đất mà lập, chẳng phải ở trong hư không. Rồng nương cung mà ở, cũng chẳng phải ở trong hư không. Nhưng khi nổi mây mưa xuống, thì mây giăng đầy khắp trong hư không. Có người ngước nhìn lên hư không, thấy có cung điện. Nên biết đó là thành thị của Càn Thát Bà, chứ chẳng phải cung điện của rồng.
Các vị Phật tử ! Rồng tuy ở dưới biển, nhưng khi nổi mây mưa xuống thì ở trên hư không. Đại Bồ Tát trụ tam muội này, cũng lại như thế. Nơi không tướng nhập, từ có tướng xuất định. Nơi có tướng nhập, từ không tướng xuất định, chẳng có chướng ngại.

Phật tử! thí như diệu quang Đại phạm Thiên Vương sở trụ chi cung, danh: nhất thiết thế gian tối thắng thanh tịnh tạng; thử Đại cung trung, phổ kiến tam thiên đại thiên thế giới chư tứ thiên hạ Thiên cung, long cung, dạ xoa cung, Càn thát bà cung, A-tu-la cung, Ca Lâu La cung, khẩn na la cung, Ma hầu la già cung; nhân gian trụ xứ cập tam ác đạo, Tu-di sơn đẳng, chủng chủng chư sơn, đại hải, giang hà, pha trạch, tuyền nguyên, thành ấp, tụ lạc, thụ lâm, chúng bảo, như thị nhất thiết chủng chủng trang nghiêm, tận đại luân vi sở hữu biên tế, nãi chí không trung vi tế du trần, mạc bất giai ư phạm cung hiển hiện, như ư minh kính kiến kỳ diện tượng.
Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử nhất thiết chúng sanh sái biệt thân Đại tam muội, tri chủng chủng sát, kiến chủng chủng Phật, độ chủng chủng chúng, chứng chủng chủng Pháp, thành chủng chủng hạnh, mãn chủng chủng giải, nhập chủng chủng tam muội, khởi chủng chủng thần thông, đắc chủng chủng trí tuệ, trụ chủng chủng sát-na tế.
Phật tử ! Ví như cung điện của Diệu Quang Đại Phạm Thiên Vương ở, gọi là Nhất thiết thế gian tối thắng thanh tịnh tạng. Ở trong đại cung điện đó, thấy khắp các bốn thiên hạ trong ba ngàn đại thiên thế giới, cung trời, cung rồng, cung Dạ Xoa, cung Càn Thát Bà, cung A Tu La, cung Ca Lâu La, cung Khẩn Na La, cung Ma Hầu La Già, chỗ ở nhân gian, và ba đường ác, núi Tu Di đủ thứ các núi, biển cả sông ngòi, ao đầm nguồn suối, thành ấp làng xóm, cây rừng các báu, tất cả đủ thứ sự trang nghiêm như vậy, tột cùng hết thảy bờ mé đại luân vi. Cho đến du trần vi tế ở trong hư không, thảy đều hiển hiện ra ở trong Phạm cung. Giống như thấy mặt mình hiện ra trong gương sáng.
Đại Bồ Tát trụ đại tam muội Tất cả thân chúng sinh khác biệt này, biết đủ thứ cõi, thấy các vị Phật, độ đủ thứ chúng, chứng đủ thứ pháp, thành tựu đủ thứ hạnh, viên mãn đủ thứ giải, vào đủ thứ tam muội, khởi đủ thứ thần thông, được đủ thứ trí huệ, trụ đủ thứ sát na tế.
Giảng: Các vị Phật tử !Ví như cung điện của Diệu Quang Đại Phạm Thiên Vương ở, gọi là Nhất thiết thế gian tối thắng thanh tịnh tạng. Ở trong đại cung điện đó, thấy khắp tất cả các bốn thiên hạ trong ba ngàn đại thiên thế giới. Hết thảy cung điện trời, cung điện rồng, cung điện Dạ xoa, cung điện Càn thát bà, cung điện A tu la, cung điện Ca lâu la, cung điện Khẩn na la, cung điện Ma hầu la già, cùng với chỗ ở nhân gian, và ba đường ác.
Ở trong Phạm cung đó, lại thấy núi Tu di đủ thứ các núi, đủ thứ biển cả, đủ thứ sông ngòi, đủ thứ ao đầm, đủ thứ nguồn suối, thành ấp, làng xóm, cây rừng, các báu .v.v…tất cả đủ thứ sự trang nghiêm như vậy, tột cùng hết thảy bờ mé đại luân vi. Cho đến du trần vi tế tận cùng ở trong hư không, thảy đều hiển hiện ra ở trong đại cung điện Nhất thiết thế gian tối thắng thanh tịnh tạng của Diệu Quang Đại Phạm Thiên. Giống như thấy tướng mặt mình hiện ra trong gương sáng.
Đại Bồ Tát trụ đại tam muội tất cả thân chúng sinh khác biệt này, biết đủ thứ cõi Phật, thấy được các vị Phật, độ được đủ thứ chúng, chứng được đủ thứ pháp, thành tựu đủ thứ hạnh, viên mãn đủ thứ tri giải, vào được đủ thứ tam muội, sinh khởi đủ thứ thần thông, đắc được đủ thứ trí huệ, trụ tại đủ thứ sát na tế.
Ở trên đưa ra sáu ví dụ :
1. Dụ về huyễn hiện sáu cảnh.
2. Dụ về A tu la chạy trốn.
3. Dụ về nông phu gieo giống.
4. Dụ về thọ thai lớn lên.
5. Dụ về rồng ở dưới mây ở trên.
6. Dụ về Phạm cung hiện khắp.
Đó là biểu thị đại Bồ Tát thị hiện, khi nhập vào đại tam muội Tất cả thân chúng sinh khác biệt, có vô lượng cảnh giới, có đủ thứ sự khác biệt, nhậm vận tự tại, muốn nhập định lúc nào ? Lúc nào xuất định ? Nơi nào nhập định ? Nơi nào xuất định ? Đều toại tâm như ý, chẳng có chướng ngại. Cảnh giới này, thật là không thể nghĩ bàn, diệu không thể tả.

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát đáo thập chủng thần thông bỉ ngạn. hà giả vi thập? Sở vị:
đáo chư Phật tận hư không biến Pháp giới thần thông bỉ ngạn,
đáo Bồ Tát cứu cánh vô sái biệt tự tại thần thông bỉ ngạn,
đáo năng phát khởi Bồ Tát quảng đại hạnh nguyện nhập Như Lai môn Phật sự thần thông bỉ ngạn,
đáo năng chấn động nhất thiết thế giới nhất thiết cảnh giới tất lệnh thanh tịnh thần thông bỉ ngạn,
đáo năng tự tại tri nhất thiết chúng sanh bất tư nghị nghiệp quả giai như huyễn hóa thần thông bỉ ngạn,
đáo năng tự tại tri chư tam muội thô tế nhập xuất sái biệt tướng thần thông bỉ ngạn,
đáo năng dũng mãnh nhập Như Lai cảnh giới nhi ư kỳ trung phát sanh đại nguyện thần thông bỉ ngạn,
đáo năng hóa tác Phật hóa chuyển pháp luân điều phục chúng sanh lệnh sanh Phật chủng lệnh nhập Phật thừa tốc đắc thành tựu thần thông bỉ ngạn,
đáo năng liễu tri bất khả thuyết nhất thiết bí mật văn cú nhi chuyển pháp luân lệnh bách thiên ức na-do-tha bất khả thuyết bất khả thuyết Pháp môn giai đắc thanh tịnh thần thông bỉ ngạn,
đáo bất giả trú dạ niên nguyệt kiếp số nhất niệm tất năng tam thế thị hiện thần thông bỉ ngạn. Thị vi thập.
Phật tử ! Đại Bồ Tát này đến được mười thứ thần thông bờ kia. Những gì là mười ? Đó là :
Thần thông bờ kia đến được chư Phật tận hư không khắp pháp giới.
Thần thông bờ kia đến được Bồ Tát rốt ráo không khác biệt tự tại.
Thần thông bờ kia đến được hay phát khởi Bồ Tát hạnh nguyện rộng lớn, vào Như Lai môn Phật sự.
Thần thông bờ kia đến được hay chấn động tất cả thế giới, tất cả cảnh giới đều khiến cho thanh tịnh.
Thần thông bờ kia đến được hay tự tại biết nghiệp quả không nghĩ bàn của tất cả chúng sinh, đều như huyễn hoá.
Thần thông bờ kia đến được hay tự tại biết tam muội thô tế nhập xuất tướng khác biệt.
Thần thông bờ kia đến được hay dũng mãnh vào cảnh giới Như Lai, mà ở trong đó phát sinh đai nguyện.
Thần thông bờ kia đến được hay hoá làm Phật hoá chuyển pháp luân, điều phục chúng sinh, khiến cho sinh giống Phật, khiến cho vào Phật thừa, sớm được thành tựu.
Thần thông bờ kia đến được hay biết rõ bất khả thuyết tất cả bí mật câu văn mà chuyển pháp luân, khiến cho trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn đều được thanh tịnh.
Thần thông bờ kia đến được chẳng mượn ngày đêm năm tháng kiếp số, một niệm đều có thể thị hiện ba đời. Đó là mười.
Giảng: Các vị Phật tử !Đại Bồ Tát này đến được cảnh giới mười thứ thần thông bờ kia. Bờ kia tức là Ba la mật. Những gì là mười ? Đó là :
1. Thần thông bờ kia đến được chư Phật tận hư không khắp pháp giới.
2. Thần thông bờ kia đến được Bồ Tát tự tại rốt ráo không khác biệt.
3. Thần thông bờ kia đến được hay phát khởi Bồ Tát hạnh nguyện rộng lớn, vào môn của Như Lai, làm đủ thứ Phật sự
4. Thần thông bờ kia đến được hay chấn động tất cả thế giới, tất cả cảnh giới đều khiến cho thanh tịnh.
5. Thần thông bờ kia đến được hay tự tại biết nghiệp quả không nghĩ bàn của tất cả chúng sinh, đều như huyễn như hoá.
6. Thần thông bờ kia đến được hay tự tại biết tất cả tam muội thô tế nhập xuất tướng khác biệt.
7. Thần thông bờ kia đến được hay dũng mãnh vào cảnh giới của Như Lai, mà ở trong đó phát sinh đai nguyện.
8. Thần thông bờ kia đến được hay hoá làm tướng Phật, hoá làm chuyển pháp luân, điều phục chúng sinh, khiến cho sinh giống tánh Phật, khiến cho vào diệu pháp của Phật thừa, sớm được thành tựu.
9. Thần thông bờ kia đến được hay biết rõ bất khả thuyết tất cả bí mật câu văn, mà chuyển đại pháp luân, khiến cho trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn đều được thanh tịnh.
10. Thần thông bờ kia đến được chẳng giả mượn ngày đêm năm tháng kiếp số, trong một niệm, hoàn toàn đều có thể thị hiện ba đời. Đó là cảnh giới mười thứ thần thông bờ kia.

Phật tử! thị danh: Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ bát nhất thiết chúng sanh sái biệt thân Đại tam muội thiện xảo trí.
Phật tử ! Đó là đại tam muội Trí thiện xảo tất cả thân chúng sinh khác biệt thứ tám của đại Bồ Tát.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là đại tam muội Trí huệ thiện xảo tất cả thân chúng sinh khác biệt thứ tám của đại Bồ Tát tu nhập vào.