Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát Pháp giới tự tại tam muội?
Phật tử ! Thế nào là tam muội Tự tại pháp giới của đại Bồ Tát ?
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Thế nào gọi là đại tam muội Tự tại pháp giới của đại Bồ Tát phải tu hành ?
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát ư tự nhãn xứ nãi chí ý xứ nhập tam muội, danh: Pháp giới tự tại.
Bồ Tát ư tự thân nhất nhất mao khổng trung nhập thử tam muội, tự nhiên năng tri chư thế gian, tri chư thế gian pháp, tri chư thế giới, tri ức na-do-tha thế giới, tri a-tăng-kì thế giới, tri bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới; kiến nhất thiết thế giới trung hữu Phật xuất hưng, Bồ Tát chúng hội tất giai sung mãn, quang minh thanh tịnh, thuần thiện vô tạp, quảng đại trang nghiêm, chủng chủng chúng bảo dĩ vi nghiêm sức.
Phật tử ! Đại Bồ Tát này ở nơi con mắt của mình, cho đến nơi ý nhập tam muội, gọi là tự tại pháp giới.
Trong mỗi lỗ chân lông nơi thân của Bồ Tát, đều nhập tam muội này. Tự nhiên biết được các thế gian, biết các pháp thế gian, biết các thế giới, biết ức Na do tha thế giới, biết A tăng kỳ thế giới, biết thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Thấy trong tất cả thế giới có Phật xuất hiện ra đời, Bồ Tát chúng hội, thảy đều đầy dẫy. Quang minh thanh tịnh, thuần thiện không tạp, rộng lớn trang nghiêm, đủ thứ các báu dùng để nghiêm sức.
Giảng: Các vị Phật tử !Vị đại Bồ Tát này tu hành Bồ Tát đạo, viên mãn lục độ vạn hạnh, tích tập đủ thứ căn lành. Ở nơi con mắt của mình, cho đến nơi ý của mình, nhập tam muội, đại tam muội này tên gọi là Tự tại pháp giới.
Trong mỗi lỗ chân lông nơi thân của Bồ Tát, đều nhập tam muội Tự tại pháp giới, tự nhiên biết được cảnh giới của tất cả thế gian, biết được tất cả pháp thế gian, biết được tất cả thế giới, biết được ức Na do tha thế giới, biết được A tăng kỳ thế giới, biết được thế giới nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết cõi Phật. Lại thấy được trong tất cả thế giới có Phật xuất hiện ra đời, Bồ Tát đại chúng pháp hội, đều đầy dẫy khắp thế giới. Vừa quang minh vừa thanh tịnh, thuần thiện không tạp, vừa rộng lớn lại trang nghiêm. Dùng đủ thứ các châu báu để nghiêm sức.
Bồ Tát ư bỉ, hoặc nhất kiếp, bách kiếp, thiên kiếp, ức kiếp, bách thiên ức na-do-tha kiếp, vô số kiếp, vô lượng kiếp, vô biên kiếp, vô đẳng kiếp, bất khả số kiếp, bất khả xưng kiếp, bất khả tư kiếp, bất khả lượng kiếp, bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp. Tu Bồ Tát hạnh thường bất hưu tức;
Bồ Tát ở nơi đó, hoặc một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, ức kiếp, trăm ngàn ức Na do tha kiếp, vô số kiếp, vô lượng kiếp, vô biên kiếp, vô đẳng kiếp, bất khả số kiếp, bất khả xưng kiếp, bất khả tư kiếp, bất khả lượng kiếp, bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp, tu Bồ Tát hạnh, thường không ngừng nghỉ.
Giảng: Bồ Tát ở trong chúng hội đạo tràng, hoặc một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, ức kiếp, trăm ngàn ức Na do tha kiếp, vô số kiếp, vô lượng kiếp, vô biên kiếp, vô đẳng kiếp, bất khả số kiếp, bất khả xưng kiếp, bất khả tư kiếp, bất khả lượng kiếp, bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp, trong thời gian dài này, Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh, luôn luôn không ngừng nghỉ, cũng chẳng có khi nào nhàm mỏi. Đó là đại hạnh đại nguyện của Bồ Tát, tinh thần đó, khiến cho mọi người khởi tâm kính phục.
Hựu ư như thị vô lượng kiếp trung trụ thử tam muội, diệc nhập diệc khởi, diệc thành tựu thế giới, diệc điều phục chúng sanh, diệc biến liễu Pháp giới, diệc phổ tri tam thế, diệc diễn thuyết chư Pháp, diệc hiện đại thần thông, chủng chủng phương tiện Vô Trước vô ngại; dĩ ư Pháp giới đắc tự tại cố, thiện phân biệt nhãn, thiện phân biệt nhĩ, thiện phân biệt tỳ, thiện phân biệt thiệt, thiện phân biệt thân, thiện phân biệt ý, như thị chủng chủng sái biệt bất đồng, tất thiện phân biệt tận kỳ biên tế.
Lại ở trong vô lượng kiếp như vậy, trụ tam muội này. Cũng nhập, cũng khởi, cũng thành tựu thế giới, cũng điều phục chúng sinh, cũng rõ khắp pháp giới, cũng biết khắp ba đời, cũng diễn nói các pháp, cũng hiện đại thần thông. Đủ thứ phương tiện, không chấp, không ngại, vì nhờ nơi pháp giới mà đắc được tự tại. Khéo phân biệt mắt, khéo phân biệt tai, khéo phân biệt mũi, khéo phân biệt lưỡi, khéo phân biệt thân, khéo phân biệt ý. Đủ thứ sự khác nhau như vậy, đều khéo phân biệt, tột cùng bờ mé.
Giảng: Bồ Tát lại ở trong vô lượng kiếp như vậy, khi trụ nơi tam muội tự tại pháp giới, cũng nhập định, cũng xuất định, cũng thành tựu thế giới, cũng điều phục chúng sinh, cũng rõ khắp pháp giới, cũng biết khắp ba đời, cũng diễn nói các pháp, cũng thị hiện đại thần thông. Đủ thứ phương tiện, cũng không chấp trước, cũng không chướng ngại.
Bồ Tát ở trong pháp giới, nhờ đắc được nhậm vận tự tại, cho nên khéo phân biệt mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sáu căn. Đủ thứ các căn khác nhau như vậy, Bồ Tát hoàn toàn phân biệt được, tột cùng bờ mé. Cảnh giới đó, Bồ Tát có đại trí huệ mới phân biệt rõ ràng được.
Bồ Tát như thị thiện tri kiến dĩ, năng sanh khởi thập thiên ức Đà-la-ni pháp quang minh, thành tựu thập thiên ức thanh tịnh hạnh, hoạch đắc thập thiên ức chư căn, viên mãn thập thiên ức thần thông, năng nhập thập thiên ức tam muội, thành tựu thập thiên ức thần lực, trưởng dưỡng thập thiên ức chư lực, viên mãn thập thiên ức thâm tâm, vận động thập thiên ức lực trì, thị hiện thập thiên ức thần biến, cụ túc thập thiên ức Bồ Tát vô ngại, viên mãn thập thiên ức Bồ Tát trợ đạo, tích tập thập thiên ức Bồ-tát tạng, chiếu minh thập thiên ức Bồ Tát phương tiện, diễn thuyết thập thiên ức chư nghĩa, thành tựu thập thiên ức chư nguyện, xuất sanh thập thiên ức hồi hướng, tịnh trì thập thiên ức Bồ Tát chánh vị, minh liễu thập thiên ức Pháp môn, khai thị thập thiên ức diễn thuyết, tu trì thập thiên ức Bồ Tát thanh tịnh.
Bồ Tát khéo thấy biết như vậy rồi, bèn sinh khởi mười ngàn ức Đà la ni pháp quang minh, thành tựu mười ngàn ức hạnh thanh tịnh, đắc được mười ngàn ức các căn, viên mãn mười ngàn ức thần thông, vào được mười ngàn ức tam muội, thành tựu mười ngàn ức thần lực, trưởng dưỡng mười ngàn ức các lực, viên mãn mười ngàn ức thâm tâm, vận động mười ngàn ức lực trì, thị hiện mười ngàn ức thần biến, đầy đủ mười ngàn ức Bồ Tát vô ngại, viên mãn mười ngàn ức Bồ Tát trợ đạo, tích tập mười ngàn ức Bồ Tát tạng, chiếu rõ mười ngàn ức Bồ Tát phương tiện, diễn nói mười ngàn ức các nghĩa, thành tựu mười ngàn ức các nguyện, sinh ra mười ngàn ức hồi hướng, tịnh trị mười ngàn ức Bồ Tát chánh vị, thấu rõ mười ngàn ức pháp môn, khai thị mười ngàn ức diễn nói, tu trị mười ngàn ức Bồ Tát thanh tịnh.
Giảng: Bồ Tát khéo thấy biết như vậy rồi, bèn sinh khởi mười ngàn ức đà la ni pháp quang minh, thành tựu mười ngàn ức hạnh thanh tịnh, đắc được mười ngàn ức các căn, viên mãn mười ngàn ức thần thông, vào được mười ngàn ức tam muội, thành tựu mười ngàn ức thần lực, trưởng dưỡng mười ngàn ức các lực, viên mãn mười ngàn ức thâm tâm, vận động mười ngàn ức lực trì, thị hiện mười ngàn ức thần biến, đầy đủ mười ngàn ức cảnh giới Bồ Tát vô ngại, viên mãn mười ngàn ức Bồ Tát trợ đạo, tích tập mười ngàn ức Bồ Tát tạng, chiếu rõ mười ngàn ức Bồ Tát phương tiện, diễn nói mười ngàn ức các nghĩa, thành tựu mười ngàn ức các nguyện, sinh ra mười ngàn ức hồi hướng, tịnh trị mười ngàn ức Bồ Tát chánh vị, thấu rõ mười ngàn ức pháp môn, khai thị mười ngàn ức diễn nói, tu trị mười ngàn ức Bồ Tát thanh tịnh.
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát phục hưũ vô số công đức, vô lượng công đức, vô biên công đức, vô đẳng công đức, bất khả số công đức, bất khả xưng công đức, bất khả tư công đức, bất khả lượng công đức, bất khả thuyết công đức, vô tận công đức.
Phật tử! thử Bồ Tát ư như thị công đức, giai dĩ biện cụ, giai dĩ tích tập, giai dĩ trang nghiêm, giai dĩ thanh tịnh, giai dĩ oánh triệt, giai dĩ nhiếp thọ, giai năng xuất sanh, giai khả xưng thán, giai đắc kiên cố, giai dĩ thành tựu.
Phật tử ! Đại Bồ Tát này, lại có vô số công đức, vô lượng công đức, vô biên công đức, vô đẳng công đức, bất khả số công đức, bất khả xưng công đức, bất khả tư công đức, bất khả lượng công đức, bất khả thuyết công đức, vô tận công đức.
Phật tử ! Bồ Tát này nơi công đức như vậy, đều đã làm đủ, đều đã tích tập, đều đã trang nghiêm, đều đã thanh tịnh, đều đã thấu triệt, đều đã nhiếp thọ, đều hay sinh ra, đều đáng khen ngợi, đều được kiên cố, đều đã thành tựu.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát lại thành tựu vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, vô cùng vô tận công đức như vậy,
Các vị Phật tử ! Vị Bồ Tát này đối với công đức như đã nói ở trên, đều đã viên mãn đầy đủ, đều đã tích tập thành tựu, đều đã trang nghiêm thanh tịnh, đều đã thấu triệt, đều đã nhiếp thọ chúng sinh, đều hay sinh ra Bát nhã, đều đáng tán thán khen ngợi, đều được kiên cố bất hoại, đều đã thành tựu đạo nghiệp.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, vi Đông phương thập thiên a-tăng-kì Phật sát vi trần số danh hiệu chư Phật chi sở nhiếp thọ, nhất nhất danh hiệu phục hưũ thập thiên a-tăng-kì Phật sát vi trần số Phật, các các sái biệt; như Đông phương, Nam, Tây, Bắc phương, tứ duy, thượng, hạ, diệc phục như thị.
Bỉ chư Phật tất hiện kỳ tiền, vi hiện chư Phật thanh tịnh sát, vi thuyết chư Phật vô lượng thân, vi thuyết chư Phật nan tư nhãn, vi thuyết chư Phật vô lượng nhĩ, vi thuyết chư Phật thanh tịnh tỳ, vi thuyết chư Phật thanh tịnh thiệt, vi thuyết chư Phật vô trụ tâm, vi thuyết Như Lai vô thượng thần thông,
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, được danh hiệu chư Phật phương đông, nhiều như số hạt bụi mười ngàn ức A tăng kỳ cõi Phật nhiếp thọ. Mỗi mỗi danh hiệu, lại có chư Phật nhiều như số hạt bụi mười ngàn ức A tăng kỳ cõi Phật, thảy đều khác biệt. Như phương đông, phương nam tây bắc bốn hướng trên dưới cũng lại như thế.
Chư Phật đó đều hiện ra ở trước mặt, vì hiện cõi nước chư Phật thanh tịnh, vì nói vô lượng thân của chư Phật, vì nói mắt khó nghĩ bàn của chư Phật, vì nói vô lượng tai của chư Phật, vì nói mũi thanh tịnh của chư Phật, vì nói lưỡi thanh tịnh của chư Phật, vì nói tâm vô trụ của chư Phật, vì nói thần thông vô thượng của Như Lai.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, được danh hiệu chư Phật phương đông, nhiều như số hạt bụi mười ngàn ức A tăng kỳ cõi Phật nhiếp thọ. Ở trong mỗi danh hiệu, lại có Phật nhiều như số hạt bụi mười ngàn ức A tăng kỳ cõi Phật, mỗi vị Phật đều khác biệt. Như phương đông là như thế, phương nam, tây, bắc, bốn hướng trên dưới, cũng lại như thế.
Hết thảy chư Phật đó, thảy đều hiện ra ở trước mặt, vì hiện cõi Phật thanh tịnh của chư Phật, vì nói vô lượng thân của chư Phật, vì nói mắt khó nghĩ bàn của chư Phật, vì nói vô lượng tai của chư Phật, vì nói mũi thanh tịnh của chư Phật, vì nói lưỡi thanh tịnh của chư Phật, vì nói tâm vô trụ của chư Phật, vì nói thần thông vô thượng của Như Lai.
Lệnh tu Như Lai vô thượng Bồ-đề, Lệnh đắc Như Lai thanh tịnh âm thanh, khai thị Như Lai bất thoái Pháp luân, hiển thị Như Lai vô biên chúng hội, lệnh nhập Như Lai vô biên bí mật, tán thán Như Lai nhất thiết thiện căn, lệnh nhập Như Lai bình đẳng chi Pháp, tuyên thuyết Như Lai tam thế chủng tánh, thị hiện Như Lai vô lượng sắc tướng, xiển dương Như Lai hộ niệm chi Pháp, diễn sướng Như Lai vi diệu pháp âm, biện minh nhất thiết chư Phật thế giới, tuyên dương nhất thiết chư Phật tam muội, thị hiện chư Phật chúng hội thứ đệ, hộ trì chư Phật bất tư nghị Pháp, thuyết nhất thiết pháp do như huyễn hóa, minh chư pháp tánh vô hữu động chuyển, khai thị nhất thiết vô thượng pháp luân, tán mỹ Như Lai vô lượng công đức, lệnh nhập nhất thiết chư tam muội vân, lệnh tri kỳ tâm như huyễn như hóa, vô biên vô tận.
Khiến tu vô thượng bồ đề của Như Lai. Khiến được âm thanh thanh tịnh của Như Lai. Khai thị bánh xe pháp bất thối của Như Lai. Hiển bày vô biên chúng hội của Như Lai. Khiến vào vô biên bí mật của Như Lai. Tán thán tất cả căn lành của Như Lai. Khiến vào pháp bình đẳng của Như Lai. Tuyên nói giống tánh ba đời của Như Lai. Thị hiện vô lượng sắc tướng của Như Lai. Xiển dương pháp hộ niệm của Như Lai. Diễn xướng pháp âm vi diệu của Như Lai. Biện minh tất cả thế giới của chư Phật. Tuyên dương tất cả tam muội của chư Phật. Thị hiện chúng hội thứ tự của chư Phật. Hộ trì pháp không nghĩ bàn của chư Phật. Nói tất cả pháp giống như huyễn hoá. Thấu rõ tánh của các pháp không có động chuyển. Khai thị tất cả pháp luân vô thượng. Khen ngợi vô lượng công đức của Như Lai. Khiến vào tất cả các mây tam muội. Khiến biết tâm như huyễn, như hoá, vô biên, vô tận.
Giảng: Tại sao ở trước nói đủ thứ pháp ? Vì Phật khiến cho tất cả Bồ Tát tu hành vô thượng bồ đề của Như Lai. Khiến cho tất cả Bồ Tát đắc được âm thanh thanh tịnh của Như Lai. Khai thị bánh xe pháp bất thối của Như Lai. Hiển bày vô biên chúng hội của Như Lai. Khiến vào vô biên bí mật của Như Lai. Tán thán tất cả căn lành của Như Lai. Khiến vào pháp môn bình đẳng của Như Lai. Tuyên nói giống tánh ba đời của Như Lai. Thị hiện vô lượng sắc tướng của Như Lai. Xiển dương pháp môn hộ niệm của Như Lai. Diễn xướng pháp âm vi diệu của Như Lai. Biện minh tất cả thế giới của chư Phật. Tuyên dương tất cả tam muội của chư Phật. Thị hiện chúng hội thứ tự của chư Phật. Hộ trì pháp môn không nghĩ bàn của chư Phật. Nói tất cả pháp giống như huyễn hoá. Thấu rõ tự tánh của các pháp là tịch tĩnh, không có lúc nào động chuyển. Khai thị tất cả pháp luân vô thượng. Khen ngợi vô lượng công đức của Như Lai. Khiến vào tất cả các mây tam muội. Khiến biết tâm như huyễn như hoá, chẳng chân thật, là vô biên vô tận.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử pháp giới tự tại tam muội thời, bỉ thập phương các thập thiên a-tăng-kì Phật sát vi trần số danh hiệu Như Lai, nhất nhất danh trung các hữu thập thiên a-tăng-kì Phật sát vi trần số Phật đồng thời hộ niệm, lệnh thử Bồ Tát đắc vô biên thân; lệnh thử Bồ Tát đắc vô ngại tâm; lệnh thử Bồ Tát ư nhất thiết Pháp đắc vô vong niệm; lệnh thử Bồ Tát ư nhất thiết Pháp đắc quyết định tuệ; lệnh thử Bồ Tát chuyển canh thông mẫn, ư nhất thiết Pháp giai năng lĩnh thọ; lệnh thử Bồ Tát ư nhất thiết Pháp tất năng minh liễu; lệnh thử Bồ Tát chư căn mãnh lợi, ư thần thông Pháp tất đắc thiện xảo; lệnh thử Bồ Tát cảnh giới vô ngại, châu hành Pháp giới hằng bất hưu tức; lệnh thử Bồ Tát đắc vô ngại trí, tất cánh thanh tịnh; lệnh thử Bồ Tát dĩ thần thông lực, nhất thiết thế giới thị hiện thành Phật.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát trụ tam muội Tự tại pháp giới này, mỗi phương trong mười phương, đều có danh hiệu Như Lai, nhiều như số hạt bụi mười ngàn A tăng kỳ cõi Phật. Trong mỗi danh hiệu, đều có Phật nhiều như số hạt bụi mười ngàn A tăng kỳ cõi Phật, đồng thời hộ niệm.
Khiến cho Bồ Tát này được vô biên thân. Khiến cho Bồ Tát này được tâm vô ngại. Khiến cho Bồ Tát này nơi tất cả pháp, hay nhớ không quên. Khiến cho Bồ Tát này nơi tất cả pháp, được huệ quyết định. Khiến cho Bồ Tát này càng thêm thông minh sáng suốt, nơi tất cả pháp, đều được lãnh thọ. Khiến cho Bồ Tát này nơi tất cả pháp, đều được sáng tỏ. Khiến cho Bồ Tát này các căn dũng mãnh lanh lợi, nơi pháp thần thông, đều được khéo léo. Khiến cho Bồ Tát này được cảnh giới vô ngại, đi khắp pháp giới, luôn không ngừng nghỉ. Khiến cho Bồ Tát này được trí vô ngại, rốt ráo thanh tịnh. Khiến cho Bồ Tát này dùng sức thần thông, tất cả thế giới thị hiện thành Phật.
Giảng: Các vị Phật tử ! Khi đại Bồ Tát trụ tam muội tự tại pháp giới này, mỗi phương trong mười phương thế giới, đều có danh hiệu Như Lai, nhiều như số hạt bụi mười ngàn A tăng kỳ cõi Phật. Trong mỗi danh hiệu, đều có Phật nhiều như số hạt bụi mười ngàn A tăng kỳ cõi Phật, đồng thời hộ niệm Bồ Tát trụ tam muội này.
Khiến cho vị Bồ Tát này được vô biên thân. Khiến cho vị Bồ Tát này được tâm vô ngại. Khiến cho vị Bồ Tát này nơi tất cả pháp, đắc được sức nhớ không quên. Do đó :
« Một khi lọt qua tai,
Vĩnh viễn là giống đạo ».
Khiến cho vị Bồ Tát này nơi tất cả pháp, đắc được huệ quyết định, vì có con mắt chọn pháp, cho nên có trí huệ quyết định. Khiến cho vị Bồ Tát này càng thêm thông minh sáng suốt, nơi tất cả pháp, đều được lãnh thọ. Khiến cho vị Bồ Tát này nơi tất cả pháp, hoàn toàn được minh bạch sáng tỏ. Khiến cho vị Bồ Tát này các căn dũng mãnh lanh lợi, nơi pháp thần thông tự tại, hoàn toàn đắc được phương tiện khéo léo. Khiến cho vị Bồ Tát này đắc được cảnh giới vô ngại, đi khắp pháp giới, luôn không ngừng nghỉ. Khiến cho vị Bồ Tát này được trí vô ngại, rốt ráo thanh tịnh. Khiến cho vị Bồ Tát này dùng sức thần thông, trong tất cả thế giới thị hiện thành Phật.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, đắc thập chủng hải. Hà giả vi thập? Sở vị: đắc chư Phật hải, hàm đổ kiến cố; đắc chúng sanh hải, tất điều phục cố; đắc chư pháp hải, năng dĩ trí tuệ tất liễu tri cố; đắc chư sát hải, dĩ Vô tánh vô tác thần thông giai vãng nghệ cố; đắc công đức hải, nhất thiết tu hành tất viên mãn cố; đắc thần thông hải, năng quảng thị hiện lệnh khai ngộ cố; đắc chư căn hải, chủng chủng bất đồng tất thiện tri cố; đắc chư tâm hải, tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng sái biệt vô lượng tâm cố; đắc chư hạnh hải, năng dĩ nguyện lực tất viên mãn cố; đắc chư nguyện hải, tất sử thành tựu, vĩnh thanh tịnh cố.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, được mười thứ biển. Những gì là mười ? Đó là : Được biển chư Phật, vì đều được thấy. Được biển chúng sinh, vì đều điều phục. Được biển các pháp, vì hay dùng trí huệ đều biết rõ. Được biển các cõi, vì dùng thần thông không tánh, không làm, đều đi đến. Được biển công đức, vì tất cả tu hành đều viên mãn. Được biển thần thông, vì hay rộng thị hiện khiến cho khai ngộ. Được biển các căn, vì đủ thứ khác nhau đều khéo biết. Được biển các tâm, vì biết tất cả chúng sinh đủ thứ khác biệt vô lượng tâm. Được biển các hạnh, vì hay dùng nguyện lực đều viên mãn. Được biển các nguyện, vì đều khiến cho thành tựu vĩnh viễn thanh tịnh.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, đắc được lợi ích mười thứ biển sâu rộng. Những gì là mười ? Đó là :
1. Đắc được biển pháp tánh của tất cả chư Phật, vì đều thấy được tất cả chư Phật.
2. Đắc được biển tất cả chúng sinh, vì đều điều phục được chúng sinh cang cường.
3. Đắc được biển tất cả các pháp, vì hay dùng Nhất thiết trí huệ, hoàn toàn biết rõ.
4. Đắc được biển tất cả các cõi, vì dùng thần thông không tánh không làm, đều đi đến cõi nước chư Phật.
5. Đắc được biển tất cả công đức, vì tất cả tu hành đều viên mãn.
6. Đắc được biển tất cả thần thông, vì hay rộng thị hiện rộng lớn khiến cho khai ngộ.
7. Đắc được biển tất cả các căn, vì biết các căn của tất cả chúng sinh, có đủ thứ khác nhau.
8. Đắc được biển tất cả các tâm, vì biết tâm của tất cả chúng sinh, có đủ thứ khác biệt vô lượng.
9. Đắc được biển tất cả các hạnh, vì hay dùng nguyện lực đều viên mãn hạnh môn.
10. Đắc được biển tất cả các nguyện, vì đều khiến cho thành tựu đạo quả, vĩnh viễn thanh tịnh.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát đắc như thị thập chủng hải dĩ, phục đắc thập chủng thù thắng. Hà đẳng vi thập? nhất giả ư nhất thiết chúng sanh trung tối vi đệ nhất, nhị giả ư nhất thiết chư Thiên trung tối vi Thù đặc, tam giả ư nhất thiết Phạm Vương trung tối cực tự tại, tứ giả ư chư thế gian vô sở nhiễm trước, ngũ giả nhất thiết thế gian vô năng ánh tế, lục giả nhất thiết chư ma bất năng hoặc loạn, thất giả phổ nhập chư thú vô sở quái ngại, bát giả xứ xứ thọ sanh tri bất kiên cố, cửu giả nhất thiết Phật Pháp giai đắc tự tại, thập giả nhất thiết thần thông tất năng thị hiện.
Phật tử ! Đại Bồ Tát được mười thứ biển như vậy rồi, lại được mười thứ thù thắng. Những gì là mười ?
Đó là : Một là đệ nhất ở trong tất cả chúng sinh. Hai là thù đặc nhất ở trong tất cả chư Thiên. Ba là tự tại nhất ở trong tất cả Phạm Vương. Bốn là không nhiễm trước nơi các thế gian. Năm là tất cả thế gian không che khuất được. Sáu là tất cả các ma không mê hoặc loạn được. Bảy là vào khắp các cõi, không có quái ngại. Tám là nơi nơi thọ sinh, biết không vững bền. Chín là tất cả Phật pháp đều được tự tại. Mười là tất cả thần thông đều thị hiện được.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát đắc được lợi ích mười thứ biển sâu rộng như vậy rồi, lại được mười thứ lợi ích thù thắng siêu tuyệt. Những gì là mười ? Đó là :
1. Bồ Tát ở trong tất cả chúng sinh là đệ nhất không có ai bằng.
2. Bồ Tát thù thắng nhất lại đặc biệt ở trong tất cả chư Thiên.
3. Bồ Tát tự tại nhất ở trong tất cả Phạm Vương.
4. Bồ Tát không nhiễm ô, cũng không chấp trước trong tất cả thế gian.
5. Quang minh của tất cả thế gian không cách chi che khuất được quang minh của Bồ Tát.
6. Tất cả các ma không mê hoặc nhiễu loạn được tâm thanh tịnh của Bồ Tát.
7. Tuy Bồ Tát vì độ sinh, mà vào khắp các cõi thọ sinh, nhưng không có sự quái ngại.
8. Khi Bồ Tát nơi nơi thọ sinh, biết tất cả đều không vững bền, nên không tham luyến.
9. Bồ Tát đối với tất cả Phật pháp, đều được nhậm vận tự tại.
10. Bồ Tát đắc được tất cả thần thông, đều có thể thị hiện trước tất cả chúng sinh.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát đắc như thị thập chủng thù thắng dĩ, phục đắc thập chủng lực, ư chúng sanh giới tu tập chư hạnh. Hà đẳng vi thập? nhất vị dũng kiện lực, điều phục thế gian cố; nhị vị tinh tấn lực, hằng Bất-thoái-chuyển cố, tam vị Vô Trước lực, Ly chư cấu nhiễm cố; tứ vị tịch tĩnh lực, ư nhất thiết Pháp vô tránh luận cố; ngũ vị nghịch thuận lực, ư nhất thiết Pháp tâm tự tại cố; lục vị Pháp tánh lực, ư chư nghĩa trung đắc tự tại cố; thất vị vô ngại lực, trí tuệ quảng đại cố; bát vị vô úy lực, năng thuyết chư Pháp cố; cửu vị biện tài lực, năng trì chư Pháp cố; thập vị khai thị lực, trí tuệ vô biên cố.
Phật tử ! Đại Bồ Tát được mười thứ thù thắng như vậy rồi, lại được mười thứ lực. Nơi cõi chúng sinh, tu tập các hạnh. Những gì là mười ?
Một là lực dũng kiện, vì điều phục thế gian. Hai là lực tinh tấn, vì luôn không thối chuyển. Ba là lực không chấp trước, vì lìa các cấu nhiễm. Bốn là lực tịch tĩnh, vì nơi tất cả pháp không tranh luận. Năm là lực nghịch thuận, vì nơi tất cả pháp tâm tự tại. Sáu là lực pháp tánh, vì trong các nghĩa được tự tại. Bảy là lực vô ngại, vì trí huệ rộng lớn. Tám là lực vô uý, vì hay nói các pháp. Chín là lực biện tài, vì hay trì các pháp. Mười là lực khai thị, vì trí huệ vô biên.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát đắc được mười thứ thù thắng siêu tuyệt như vậy rồi, lại đắc được mười thứ sức lực không thể nghĩ bàn. Ở trong cõi chúng sinh, tu tập tất cả các hạnh, đến được bất thối chuyển. Những gì là mười ?
1. Lực dũng kiện : Vì hay điều phục chúng sinh thế gian cang cường.
2. Lực tinh tấn : Vì ngày đêm tinh tấn, luôn không thối chuyển.
3. Lực không chấp trước : Vì hay lìa khỏi tất cả ô uế, mà không nhiễm trước.
4. Lực tịch tĩnh : Vì thường ở trong định, đối với tất cả các pháp, không sinh hoài nghi, không khởi tranh luận.
5. Lực nghịch thuận : Vì bất cứ nghịch cảnh, hoặc thuận cảnh, đối với tất cả pháp trong tâm tự tại.
6. Lực pháp tánh : Vì ở trong tất cả nghĩa lý, nhậm vận tự tại, cho nên không có chướng ngại.
7. Lực vô ngại : Vì trí huệ rộng lớn, cho nên viên dung vô ngại.
8. Lực vô uý : Vì khéo thuyết pháp, cho nên không có sợ hãi.
9. Lực biện tài : Vì thọ trì tất cả các pháp, cho nên có đại biện tài.
10. Lực khai thị. Vì trí huệ vô biên, cho nên giáo hoá chúng sinh phát tâm bồ đề, học vô thượng đạo.
Phật tử! thử thập chủng lực thị quảng đại lực, tối thắng lực, vô năng tồi phục lực, vô lượng lực, thiện tập lực, bất động lực, kiên cố lực, trí tuệ lực, thành tựu lực, thắng định lực, thanh tịnh lực, cực thanh tịnh lực, Pháp thân lực, pháp quang minh lực, pháp đăng lực, Pháp môn lực, vô năng hoại lực, cực dũng mãnh lực, đại trượng phu lực, thiện trượng phu tu tập lực, thành chánh giác lực, quá khứ tích tập thiện căn lực, an trụ vô lượng thiện căn lực, trụ Như Lai lực lực, tâm tư tánh lực, tăng trưởng Bồ Tát hoan hỉ lực, xuất sanh Bồ Tát tịnh tín lực, tăng trưởng Bồ Tát dũng mãnh lực, Bồ-đề tâm sở sanh lực, Bồ Tát thanh tịnh thâm tâm lực, bồ tát thù thắng thâm tâm lực, Bồ Tát thiện căn huân tập lực, cứu cánh chư Pháp lực, vô chướng ngại thân lực, nhập phương tiện thiện xảo Pháp môn lực, thanh tịnh diệu pháp lực, an trụ đại thế nhất thiết thế gian bất năng khuynh động lực, nhất thiết chúng sanh vô năng ánh tế lực.
Phật tử ! Mười thứ lực này, là lực rộng lớn, lực tối thắng, lực không thể hàng phục, lực vô lượng, lực khéo tập, lực bất động, lực kiên cố, lực trí huệ, lực thành tựu, lực thắng định, lực thanh tịnh, lực rất thanh tịnh, lực pháp thân, lực pháp quang minh, lực pháp đăng, lực pháp môn, lực không thể hoại, lực rất dũng mãnh, lực đại trượng phu, lực trượng phu khéo tu tập, lực thành Chánh Giác, lực quá khứ tích tập căn lành, lực an trụ vô lượng căn lành, lực trụ Như Lai lực, lực tâm tư duy, lực tăng trưởng Bồ Tát hoan hỉ, lực sinh ra Bồ Tát tịnh tín, lực tăng trưởng Bồ Tát dũng mãnh, lực bồ đề tâm sinh ra, lực Bồ Tát thanh tịnh thâm tâm, lực Bồ Tát thù thắng thâm tâm, lực huân tập căn lành của Bồ Tát, lực các pháp rốt ráo, lực thân không chướng ngại, lực vào pháp môn phương tiện khéo léo, lực diệu pháp thanh tịnh, lực an trụ đại thế tất cả thế gian không thể khuynh động, lực tất cả chúng sinh không thể che lấp.
Giảng: Các vị Phật tử ! Mười thứ lực này, lại đầy đủ ba mươi tám thứ lực. Tức là :
1. Lực rộng lớn.
2. Lực tối thắng.
3. Lực không thể hàng phục.
4. Lực vô lượng.
5. Lực khéo tập.
6. Lực bất động.
7. Lực kiên cố.
8. Lực trí huệ.
9. Lực thành tựu.
10. Lực thắng định.
11. Lực thanh tịnh.
12. Lực rất thanh tịnh.
13. Lực pháp thân.
14. Lực pháp quang minh.
15. Lực pháp đăng.
16. Lực pháp môn.
17. Lực không thể hoại.
18. Lực rất dũng mãnh.
19. Lực đại trượng phu.
20. Lực trượng phu khéo tu tập.
21. Lực thành Chánh Giác.
22. Lực quá khứ tích tập căn lành.
23. Lực an trụ vô lượng căn lành.
24. Lực trụ Như Lai lực.
25. Lực tâm tư duy.
26. Lực tăng trưởng Bồ Tát hoan hỉ.
27. Lực sinh ra Bồ Tát tịnh tín.
28. Lực tăng trưởng Bồ Tát dũng mãnh.
29. Lực bồ đề tâm sinh ra.
30. Lực Bồ Tát thanh tịnh thâm tâm.
31. Lực Bồ Tát thù thắng thâm tâm.
32. Lực huân tập căn lành của Bồ Tát.
33. Lực các pháp rốt ráo.
34. Lực thân không chướng ngại.
35. Lực vào pháp môn phương tiện khéo léo.
36. Lực diệu pháp thanh tịnh.
37. Lực an trụ đại thế tất cả thế gian không thể khuynh động.
38. Lực tất cả chúng sinh không thể che lấp.
Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát ư như thị vô lượng công đức Pháp, năng sanh, năng thành tựu, năng viên mãn, năng chiếu minh, năng cụ túc, năng biến cụ túc, năng quảng đại, năng kiên cố, năng tăng trưởng, năng tịnh trì, năng Biến tịnh trì.
Phật tử ! Đại Bồ Tát này nơi pháp vô lượng công đức như vậy, hay sinh, hay thành tựu, hay viên mãn, hay chiếu sáng, hay đầy đủ, hay đầy đủ khắp, hay rộng lớn, hay kiên cố, hay tăng trưởng, hay tịnh trị, hay tịnh trị khắp.
Giảng: Các vị Phật tử ! Vị đại Bồ Tát này, đối với pháp vô lượng công đức như đã nói ở trước, hay sinh ra công đức này, hay thành tựu công đức này, hay viên mãn công đức này, hay chiếu sáng công đức này, hay đầy đủ công đức này, hay đầy đủ khắp công đức này, hay rộng lớn công đức này, hay kiên cố công đức này, hay tăng trưởng công đức này, hay tịnh trị công đức này, hay tịnh trị khắp công đức này.
Thử Bồ Tát công đức biên tế, trí tuệ biên tế, tu hành biên tế, Pháp môn biên tế, tự tại biên tế, khổ hạnh biên tế, thành tựu biên tế, thanh tịnh biên tế, xuất ly biên tế, pháp tự tại biên tế, vô năng thuyết giả.
Thử Bồ Tát sở hoạch đắc, sở thành tựu, sở thú nhập, sở hiện tiền, sở hữu cảnh giới, sở hữu quan sát, sở hữu chứng nhập, sở hữu thanh tịnh, sở hữu liễu tri, sở hữu kiến lập nhất thiết pháp môn, ư bất khả thuyết kiếp vô năng thuyết tận.
Bờ mé công đức, bờ mé trí huệ, bờ mé tu hành, bờ mé pháp môn, bờ mé tự tại, bờ mé khổ hạnh, bờ mé thành tựu, bờ mé thanh tịnh, bờ mé xuất ly, bờ mé pháp tự tại của Bồ Tát này, không ai có thể nói được.
Bồ Tát này, sự đắc được, sự thành tựu, sự thú nhập, sự hiện tiền, hết thảy cảnh giới, hết thảy quán sát, hết thảy chứng nhập, hết thảy thanh tịnh, hết thảy sự biết rõ, hết thảy kiến lập, tất cả pháp môn. Trong bất khả thuyết kiếp, không thể nói hết được.
Giảng: Vị đại Bồ Tát này, tất cả bờ mé của Ngài không cách chi biết được. Bờ mé công đức, bờ mé trí huệ, bờ mé tu hành, bờ mé pháp môn, bờ mé tự tại, bờ mé khổ hạnh, bờ mé thành tựu, bờ mé thanh tịnh, bờ mé xuất ly, bờ mé pháp tự tại. Mười thứ bờ mé này chẳng cách chi nói ra được.
Vị Bồ Tát này, Ngài có công đức không thể nghĩ bàn. Sự đắc được, sự thành tựu, sự thú nhập, sự hiện tiền, hết thảy cảnh giới, hết thảy quán sát, hết thảy chứng nhập, hết thảy thanh tịnh, hết thảy sự biết rõ, hết thảy kiến lập, tất cả pháp môn. Trong bất khả thuyết đại kiếp, cũng không cách chi có thể nói hết được.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, năng liễu tri vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết nhất thiết tam muội. Bỉ nhất nhất tam muội, sở hữu cảnh giới vô lượng quảng đại, ư cảnh giới trung nhược nhập, nhược khởi, nhược trụ, sở hữu tướng trạng, sở hữu thị hiện, sở hữu hành xử, sở hữu đẳng lưu, sở hữu tự tánh, sở hữu trừ diệt, sở hữu xuất ly, như thị nhất thiết mị bất minh kiến.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, biết rõ vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả tam muội.
Hết thảy cảnh giới của mỗi tam muội đó, rộng lớn vô lượng. Ở trong cảnh giới, hoặc nhập, hoặc khởi, hoặc trụ, hết thảy tướng trạng, hết thảy thị hiện, hết thảy hành xứ, hết thảy đẳng lưu, hết thảy tự tại, hết thảy trừ diệt, hết thảy xuất ly, tất cả như vậy, thảy đều thấy rõ.
Giảng: Các vị Phật tử ! Khi đại Bồ Tát trụ tam muội này, biết rõ vô số tam muội, vô lượng tam muội, vô biên tam muội, vô đẳng tam muội, bất khả số tam muội, bất khả xưng tam muội, bất khả tư tam muội, bất khả lượng tam muội, bất khả thuyết tam muội, bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả tam muội.
Ở trong những tam muội đó, mỗi một thứ tam muội, hết thảy cảnh giới, rộng lớn vô lượng. Ở trong cảnh giới, hoặc nhập định, hoặc xuất định, hoặc trụ định, hết thảy tướng trạng, hết thảy thị hiện, hết thảy hành xứ, hết thảy đẳng lưu, hết thảy tự tại, hết thảy trừ diệt, hết thảy xuất ly, tất cả tất cả như vậy chẳng có gì mà không biết, chẳng có gì mà không thấy được.
Phật tử! thí như vô nhiệt não Đại long vương cung lưu xuất tứ hà, vô trược vô tạp, vô hữu cấu uế, quang sắc thanh tịnh do như hư không. kỳ trì tứ diện các hữu nhất khẩu, nhất nhất khẩu trung lưu xuất nhất hà, ư tượng khẩu trung xuất Hằng già hà, sư tử khẩu trung xuất tư đà hà, ư ngưu khẩu trung xuất tín độ hà, ư mã khẩu trung xuất phược sô hà.
Kỳ tứ đại hà lưu xuất chi thời, Hằng già hà khẩu lưu xuất ngân sa, tư đà hà khẩu lưu xuất Kim cương sa, tín độ hà khẩu lưu xuất kim sa, phược sô hà khẩu lưu xuất lưu ly sa; Hằng già hà khẩu tác bạch ngân sắc, tư đà hà khẩu tác Kim cương sắc, tín độ hà khẩu tác hoàng kim sắc, phược sô hà khẩu tác lưu ly sắc, nhất nhất hà khẩu quảng nhất do-tuần.
Kỳ tứ đại hà ký lưu xuất dĩ, các cộng vi nhiễu Đại trì thất tạp, tùy kỳ phương diện tứ hướng phần lưu, hồng dũng bôn trì nhập ư đại hải.
Phật tử ! Ví như cung của Vô Nhiệt Não Đại Long Vương, nơi ao A Nậu Đạt chảy ra bốn con sông lớn. Không đục, không tạp, chẳng có dơ bẩn. Quang sắc thanh tịnh, giống như hư không.
Bốn mặt ao đó, đều có một cửa sông, chảy ra một con sông. Nơi cửa Tượng Khẩu, chảy ra sông Hằng Già. Nơi cửa Sư Tử khẩu, chảy ra sông Tư Đà. Nơi cửa Ngưu Khẩu, chảy ra sông Tín Độ. Nơi cửa Mã Khẩu, chảy ra sông Phược Sô.
Bốn ao lớn đó, khi chảy ra, thì cửa sông Hằng Già chảy ra cát bạc. Cửa sông Tư Đà chảy ra cát kim cương. Cửa sông Tín Độ chảy ra cát vàng. Cửa sông Phược Sô chảy ra cát lưu ly. Cửa sông Hằng Già màu bạc trắng. Cửa sông Tư Đà màu kim cương. Cửa sông Tín Độ màu vàng thật. Cửa sông Phược Sô màu lưu ly.
Mỗi cửa sông rộng một do tuần. Nước bốn con sông lớn đó, đều chảy quanh ao A Nậu Đạt bảy vòng, rồi theo phương diện mà chảy ra bốn hướng, nổi sóng cuồn cuộn rồi chảy vào biển.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như cung của Vô Nhiệt Não Đại Long Vương, ở trên đỉnh Tuyết Sơn. Có một cái ao lớn, tên là ao A Nậu Đạt, dịch là “Vô nhiệt”. Ao đó chu vi năm mươi do tuần, hình vuông. Có một vị đại Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, dùng nguyện lực hoá làm Long Vương, tên gọi là A Na Bà Đạt Đa, sống ở trong đó.
Bốn phía chảy ra bốn con sông lớn, để cung ứng cho chúng sinh ở Nam Thiệm Bộ Châu sử dụng. Nước đó trong trẻo không đục không tạp, chẳng có dơ bẩn. Ánh sáng và màu sắc của nước rất thanh tịnh, giống như hư không.
Bốn mặt ao Vô Nhiệt đó, đều có một cửa sông, chảy ra một con sông. Hướng đông của ao đó, cửa Tượng Khẩu màu bạc trắng, nước chảy ra thành sông Hằng Già. Hướng bắc của ao đó, cửa Sư Tử khẩu màu kim cương, nước chảy ra thành sông Tư Đà. Hướng nam của ao đó, cửa Ngưu Khẩu màu vàng thật, nước chảy ra thành sông Tín Độ. Hướng tây của ao đó, cửa Mã Khẩu màu lưu ly, nước chảy ra thành sông Phược Sô.
Bốn ao lớn đó, khi chảy ra, thì cửa sông Hằng Già chảy ra cát bạc. Cửa sông Tư Đà chảy ra cát kim cương. Cửa sông Tín Độ chảy ra cát vàng. Cửa sông Phược Sô chảy ra cát lưu ly.
Cửa sông Hằng Già màu bạc trắng. Cửa sông Tư Đà màu kim cương. Cửa sông Tín Độ màu vàng thật. Cửa sông Phược Sô màu lưu ly. Mỗi cửa sông rộng một do tuần. Nước bốn con sông lớn đó, đều chảy quanh ao A Nậu Đạt bảy vòng, rồi sau đó theo phương diện mà chảy ra bốn hướng đông tây nam bắc, thế nước rất mạnh nổi sóng cuồn cuộn, rồi chảy vào biển.
Kỳ hà toàn nhiễu, nhất nhất chi gian hữu Thiên bảo sở thành ưu-bát-la hoa, ba-đầu-ma hoa, câu vật đầu hoa, phân đà lợi hoa, kì hương phát việt, diệu sắc thanh tịnh; chủng chủng hoa diệp, chủng chủng đài nhị, tất thị chúng bảo, tự nhiên ánh triệt, hàm phóng quang minh, hỗ tương chiếu hiện.
Kỳ vô nhiệt trì châu vi quảng đại ngũ thập do-tuần, chúng bảo diệu sa biến bố kỳ để, chủng chủng ma-ni dĩ vi nghiêm sức, vô lượng diệu bảo trang nghiêm kỳ ngạn, chiên đàn diệu hương phổ tán kỳ trung, ưu-bát-la hoa, ba-đầu-ma hoa, câu vật đầu hoa, phân đà lợi hoa cập dư bảo hoa giai tất biến mãn, vi phong xuy động, hương khí viễn triệt, hoa lâm bảo thụ châu táp vi nhiễu. Nhật quang xuất thời, phổ giai chiếu minh trì hà nội ngoại nhất thiết chúng vật, tiếp ảnh liên huy thành quang minh võng. Như thị chúng vật, nhược viễn, nhược cận, nhược cao, nhược hạ, nhược quảng, nhược hiệp, nhược thô, nhược tế, nãi chí cực tiểu nhất sa nhất trần, tất thị diệu bảo, quang minh giám triệt, mị bất ư trung nhật luân ảnh hiện, diệc phục triển chuyển cánh tướng hiện ảnh; như thị chúng ảnh bất tăng bất giảm, phi hợp phi tán, giai như bản chất nhi đắc minh kiến
Ở giữa bốn con sông đó, đều có báu trời làm thành hoa Ưu bát la, hoa Ba đầu ma, hoa Câu vật đầu, hoa Phân đà lợi. Những hoa đó toả ra hương thơm ngào ngạt kỳ lạ, sắc đẹp thanh tịnh. Đủ thứ lá hoa, đủ thứ đài nhuỵ, đều bằng các báu, tự nhiên chiếu rực rỡ, đều thành quang minh, chiếu hiện với nhau.
Ao Vô Nhiệt đó, chu vi rộng lớn năm mươi do tuần. Cát bằng các thứ báu đẹp, rải khắp dưới đáy ao, có đủ thứ ma ni dùng để nghiêm sức. Vô lượng báu đẹp trang nghiêm bờ ao.
Hương thơm chiên đàn toả khắp trong ao. Hoa Ưu bát la, hoa Ba đầu ma, hoa Câu vật đầu, hoa Phân đà lợi, và các hoa báu khác, đều đầy khắp. Gió nhẹ thổi động, hương thơm toả xa. Rừng hoa cây báu bày khắp chung quanh ao.
Khi mặt trời mọc lên, ánh sáng chiếu khắp, trong ngoài sông ao, tất cả các vật, chiếu sáng lẫn nhau, thành lưới quang minh. Các vật như vậy, hoặc xa, hoặc gần, hoặc cao, hoặc thấp, hoặc rộng, hoặc hẹp, hoặc thô, hoặc tế, cho đến rất nhỏ như hạt cát, hạt bụi, đều là báu đẹp, quang minh chiếu sáng.
Tất cả các vật đều hiện bóng mặt trời, các vật đó cũng chuyển động hiện bóng lẫn nhau. Các bóng như vậy, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng hợp, chẳng tan, đều như bản chất mà được thấy rõ.
Giảng: Bốn con sông lớn đó, đều vòng về bên phải, ở giữa mỗi con sông đó, đều có báu trờilàm thành hoa Ưu bát la (hoa sen xanh), hoa Ba đầu ma (hoa sen đỏ), hoa Câu vật đầu (hoa sen vàng), hoa Phân đà lợi (hoa sen trắng). Những hoa sen đó toả ra hương thơm ngào ngạt kỳ lạ, không thể sánh bằng, màu sắc của hoa rất đẹp thanh tịnh. Đủ thứ lá hoa, đủ thứ đài nhuỵ, đều bằng các thứ báu. Có lá bằng vàng thật, hoa bằng bạc trắng, rất là tươi tốt.
Ở giữa hoa tự nhiên chiếu rực rỡ, ở giữa lá tự nhiên chiếu hiện, phóng quang minh với nhau, chiếu sáng với nhau. Năm quang mười sắc, sáng lạn chói mắt. Cảnh đó dị thường, khó mà nhìn thấy được.
Ao Vô Nhiệt đó, đặc biệt rộng lớn, chu vi năm mươi do tuần. Cát bằng các thứ báu đẹp, rải đầy khắp dưới đáy ao, có đủ thứ ma ni báu dùng để nghiêm sức ao. Dùng vô lượng báu đẹp để trang nghiêm bờ ao. Dùng hương thơm chiên đàn toả khắp trong ao. Trong ao có hoa Ưu bát la, hoa Ba đầu ma, hoa Câu vật đầu, hoa Phân đà lợi, và các hoa báu khác, đều đầy khắp. Khi gió nhẹ thổi động, hương thơm toả xa mấy do tuần.
Bốn bên ao lại có rừng hoa cây báu bày khắp chung quanh ao, rất là trang nghiêm. Khi mặt trời mọc lên, ánh sáng chiếu khắp trong ngoài sông ao, tất cả các vật, tiếp bóng lẫn nhau, chiếu sáng lẫn nhau, tạo thành lưới quang minh. Các vật như vậy, hoặc xa hoặc gần, hoặc cao hoặc thấp, hoặc rộng hoặc hẹp, hoặc thô hoặc tế, cho đến vật rất nhỏ như hạt cát hạt bụi, đều là báu đẹp, quang minh chiếu sáng.
Tất cả các vật đều hiện bóng mặt trời, các vật đó cũng chuyển động hiện bóng lẫn nhau. Do đó : “Bóng bóng chiếu nhau, bóng bóng tiếp nhau”. Các bóng như vậy, chẳng tăng, cũng chẳng giảm, cũng chẳng hợp, cũng chẳng tan, đều là chất vốn có, ánh sáng vốn có, mà được thấy rõ.
Phật tử! như vô nhiệt Đại trì, ư tứ khẩu trung lưu xuất tứ hà nhập ư đại hải; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, tùng tứ biện tài, lưu xuất chư hạnh, cứu cánh nhập ư nhất thiết trí hải.
Phật tử ! Như ao Vô Nhiệt, nơi bốn cửa, chảy ra bốn con sông, rồi nhập vào biển. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, từ bốn biện tài, chảy ra các hạnh, rốt ráo nhập vào biển Nhất thiết trí.
Giảng: Các vị Phật tử ! Như ao Vô Nhiệt, nơi bốn cửa, chảy ra bốn con sông, rồi nhập vào biển. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, từ bốn biện tài, chảy ra các hạnh, rốt ráo nhập vào biển Nhất thiết trí.
Như hằng già đại hà, tùng ngân sắc tượng khẩu lưu xuất ngân sa. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ nghĩa biện tài, thuyết nhất thiết Như Lai sở thuyết nhất thiết nghĩa môn, xuất sanh nhất thiết thanh tịnh bạch pháp, cứu cánh nhập ư vô ngại trí hải. Như tư đà đại hà, tùng Kim cương sắc sư tử khẩu lưu xuất Kim cương sa
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ pháp biện tài, vi nhất thiết chúng sanh thuyết Phật Kim cương cú, dẫn xuất Kim Cương trí, cứu cánh nhập ư vô ngại trí hải. Như tín độ đại hà, tùng kim sắc ngưu khẩu lưu xuất kim sa
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ huấn từ biện, thuyết tùy thuận thế gian duyên khởi phương tiện, khai ngộ chúng sanh, lệnh giai hoan hỉ, điều phục thành thục, cứu cánh nhập ư duyên khởi phương tiện hải. Như phược sô đại hà, ư lưu ly sắc mã khẩu lưu xuất lưu ly sa
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ vô tận biện, vũ bách thiên ức na-do-tha bất khả thuyết Pháp, lệnh kỳ văn giả giai đắc nhuận hiệp, cứu cánh nhập ư chư Phật Pháp hải.
Như sông lớn Hằng Già, từ cửa tượng khẩu màu bạc, chảy ra cát bạc. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng nghĩa biện tài, nói tất cả nghĩa môn mà tất cả Như Lai nói. Sinh ra tất cả pháp trắng thanh tịnh, rốt ráo nhập vào biển trí vô ngại.
Như sông lớn Tư Đà, từ cửa khẩu sư tử màu kim cương, chảy ra cát kim cương. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng pháp biện tài, vì tất cả chúng sinh nói câu kim cang của Phật, dẫn đến kim cang trí, rốt ráo nhập vào biển trí vô ngại.
Như sông lớn Tín Độ, từ cửa ngưu khẩu màu vàng, chảy ra cát vàng. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng huấn từ biện thuyết, tuỳ thuận phương tiện duyên khởi thế gian, khai ngộ chúng sinh, khiến cho họ đều hoan hỉ, điều phục thành thục, rốt ráo nhập vào biển phương tiện duyên khởi.
Như sông lớn Phược sô, từ cửa mã khẩu màu lưu ly, chảy ra cát lưu ly. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng vô tận biện, mưa pháp hàng trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết, khiến cho người nghe, đều được thấm nhuần, rốt ráo nhập vào biển Phật pháp.
Giảng: Như sông lớn Hằng Già, từ cửa tượng khẩu màu bạc, chảy ra cát bạc. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng nghĩa vô ngại biện tài, nói tất cả nghĩa lý pháp môn mà tất cả Như Lai nói. Sinh ra tất cả pháp trắng thanh tịnh, rốt ráo nhập vào biển trí huệ vô ngại.
Như sông lớn Tư Đà, từ cửa khẩu sư tử màu kim cương, chảy ra cát kim cương. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng pháp vô ngại biện tài, vì tất cả chúng sinh nói câu kim cang của Phật, dẫn đến kim cang trí trong tự tánh, rốt ráo nhập vào biển trí huệ vô ngại.
Như sông lớn Tín Độ, từ cửa ngưu khẩu màu vàng, chảy ra cát vàng. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng từ vô ngại biện tài, tuỳ thuận phương tiện duyên khởi thế gian, để khai ngộ chúng sinh, khiến cho họ đều đại hoan hỉ, điều phục tất cả chúng sinh, thành thục tất cả chúng sinh, rốt ráo nhập vào biển phương tiện duyên khởi.
Như sông lớn Phược sô, từ cửa mã khẩu màu lưu ly, chảy ra cát lưu ly. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng nhạo thuyết vô ngại biện tài, nói trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết pháp môn, khiến cho người nghe, đều được thấm nhuần pháp vũ, rốt ráo nhập vào biển pháp của chư Phật.
Như tứ đại hà, tùy thuận vi nhiễu vô nhiệt trì dĩ tứ phương nhập hải. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, thành tựu tùy thuận thân nghiệp, tùy thuận ngữ nghiệp, tùy thuận ý nghiệp, thành tựu trí vi tiền đạo thân nghiệp, trí vi tiền đạo ngữ nghiệp, trí vi tiền đạo ý nghiệp, tứ phương lưu chú, cứu cánh nhập ư nhất thiết trí hải.
Phật tử! hà giả danh vi Bồ Tát tứ phương?
Phật tử! sở vị: kiến nhất thiết Phật nhi đắc khai ngộ, văn nhất thiết pháp thọ trì bất vong, viên mãn nhất thiết Ba-la-mật hạnh, đại bi thuyết Pháp mãn túc chúng sanh.
Như bốn con sông lớn, tuỳ thuận bao quanh ao Vô Nhiệt rồi, từ bốn phương chảy vào biển. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thành tựu tuỳ thuận thân nghiệp, tuỳ thuận lời nghiệp, tuỳ thuận ý nghiệp. Thành tựu trí làm tiền đạo thân nghiệp, trí làm tiền đạo lời nghiệp, trí làm tiền đạo ý nghiệp. Bốn phương chảy ra, rốt ráo nhập vào biển Nhất thiết trí.
Phật tử ! Thế nào gọi là bốn phương của Bồ Tát ?
Phật tử ! Đó là thấy tất cả chư Phật mà được khai ngộ. Nghe tất cả pháp thọ trì không quên. Viên mãn tất cả hạnh Ba la mật. Đại bi thuyết pháp, đầy đủ chúng sinh.
Giảng: Như bốn con sông lớn, tuỳ thuận phương hướng bao quanh ao lớn Vô Nhiệt rồi, từ bốn phương chảy nhập vào biển. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thành tựu tuỳ thuận thân nghiệp, lời nghiệp, ý nghiệp. Thành tựu trí làm tiền đạo thân nghiệp, lời nghiệp, ý nghiệp. Từ bốn phương chảy ra, cuối cùng chảy vào biển Nhất thiết trí.
Các vị Phật tử ! Thế nào gọi là bốn phương của Bồ Tát ?
Các vị Phật tử ! Hãy chú ý lắng nghe, đó là :
1. Bồ Tát thấy được tất cả chư Phật, mà được khai ngộ, minh bạch bản lai diện mục (bộ mặt thật xưa nay).
2. Bồ Tát nghe được tất cả pháp, vì văn, tư, tu, ba huệ viên mãn, cho nên thọ trì không quên.
3. Bồ Tát viên mãn được tất cả hạnh Ba la mật.
4. Bồ Tát dùng đại bi tâm để thuyết pháp, đầy đủ dục vọng của tất cả chúng sinh.
Như tứ đại hà vi nhiễu Đại trì, ư kỳ trung gian, ưu-bát-la hoa, ba-đầu-ma hoa, câu vật đầu hoa, phân đà lợi hoa giai tất biến mãn. Bồ Tát ma ha tát diệc phục như thị, ư Bồ-đề tâm trung gian, bất xả chúng sanh, thuyết Pháp điều phục, tất lệnh viên mãn vô lượng tam muội, kiến Phật quốc độ trang nghiêm thanh tịnh.
Như bốn con sông lớn, bao quanh ao lớn. Ở trong giữa ao đó, đều đầy dẫy hoa ưu bát la, hoa ba đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, ở trong giữa tâm bồ đề, chẳng bỏ chúng sinh, nói pháp điều phục, đều khiến cho viên mãn vô lượng tam muội, thấy cõi nước Phật trang nghiêm thanh tịnh.
Giảng: Như bốn con sông lớn, bao quanh ao lớn Vô Nhiệt. Ở trong giữa ao đó, đều đầy dẫy hoa ưu bát la, hoa ba đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, ở trong giữa tâm bồ đề, chẳng bỏ chúng sinh nào, mà vì họ nói đủ thứ pháp, để điều phục chúng sinh cang cường, đều khiến cho viên mãn vô lượng tam muội, thấy được cõi nước Phật đều trang nghiêm thanh tịnh.
Như vô nhiệt Đại trì, bảo thụ vi nhiễu. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, hiện Phật quốc độ trang nghiêm vi nhiễu, lệnh chư chúng sanh thú hướng Bồ-đề.
Như ao lớn Vô Nhiệt, có cây báu chung quanh. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, hiện cõi nước Phật chung quanh trang nghiêm, khiến cho các chúng sinh hướng về bồ đề.
Giảng: Như ao lớn Vô Nhiệt, có đủ thứ cây báu chung quanh tứ phía. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng sức thần thông biến hoá, thị hiện cõi nước chư Phật chung quanh trang nghiêm, khiến cho các chúng sinh hướng về bồ đề giác đạo.
Như vô nhiệt Đại trì, kỳ trung túng quảng ngũ thập do-tuần, thanh tịnh vô trược. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, Bồ-đề chi tâm kỳ lượng vô biên, thiện căn sung mãn, thanh tịnh vô trược.
Như ao lớn Vô Nhiệt, bề ngang rộng năm mươi do tuần, thanh tịnh không đục. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tâm bồ đề rộng vô lượng vô biên, căn lành đầy dẫy, thanh tịnh không đục.
Giảng: Như ao lớn Vô Nhiệt, bề ngang rộng năm mươi do tuần, nước rất thanh tịnh không đục. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, phát tâm bồ đề vô lượng vô biên, căn lành đầy dẫy pháp giới, thanh tịnh không đục.
Như vô nhiệt Đại trì, dĩ vô lượng bảo trang nghiêm kỳ ngạn, tán chiên đàn hương biến mãn kỳ trunG. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ ách thiên ức thập chủng trí bảo nghiêm Bồ-đề tâm đại nguyện chi ngạn, phổ tán nhất thiết chúng thiện diệu hương.
Như ao lớn Vô Nhiệt, dùng vô lượng báu trang nghiêm bờ ao, rải hương chiên đàn, đầy khắp trong đó. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng trăm ngàn ức mười thứ trí báu, trang nghiêm bờ bồ đề tâm đại nguyện, khắp rải hương thơm tất cả các điều thiện.
Giảng: Như ao lớn Vô Nhiệt, dùng vô lượng các báu để trang nghiêm bờ ao, rải hương bột chiên đàn, đầy khắp trong đó. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng trăm ngàn ức mười thứ trí huệ báu, để trang nghiêm bờ bồ đề tâm đại nguyện, khắp rải hương thơm tất cả các điều thiện.
Như vô nhiệt Đại trì, để bố kim sa, chủng chủng ma-ni gian thác trang nghiêm. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, vi diệu trí tuệ chu biến quan sát, bất khả tư nghị Bồ Tát giải thoát chủng chủng pháp bảo gian thác trang nghiêm, đắc nhất thiết pháp vô ngại quang minh, trụ ư nhất thiết chư Phật sở trụ, nhập ư nhất thiết thậm thâm phương tiện.
Như ao lớn Vô Nhiệt, đáy ao rải cát vàng, đủ thứ ma ni, xen lẫn trang nghiêm. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, trí huệ vi diệu, quán sát khắp cùng, bất khả tư nghì giải thoát của Bồ Tát, đủ thứ pháp bảo, xen lẫn trang nghiêm. Được tất cả pháp quang minh vô ngại, trụ chỗ trụ của tất cả chư Phật, vào trong tất cả phương tiện thâm sâu.
Giảng: Như ao lớn Vô Nhiệt, đáy ao rải đầy cát vàng, đủ thứ châu báu ma ni, xen lẫn để trang nghiêm. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng trí huệ vi diệu, để quán sát khắp cùng, bất khả tư nghì giải thoát của Bồ Tát. Có đủ thứ pháp bảo, xen lẫn trang nghiêm. Được tất cả pháp vô ngại quang minh, trụ nơi cảnh giới chỗ trụ của tất cả chư Phật, vào được trong tất cả pháp môn phương tiện khéo léo thâm sâu.
Như A na bà đạt đa long Vương, vĩnh ly long trung sở hữu nhiệt não. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, vĩnh ly nhất thiết thế gian ưu não, tuy hiện thọ sanh nhi vô nhiễm trước.
Như A Na Bà Đạt Đa Long Vương, vĩnh viễn lìa khỏi mọi nhiệt não trong loài rồng. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả ưu não của thế gian. Tuy hiện thọ sinh mà không nhiễm trước.
Giảng: Như A Na Bà Đạt Đa Long Vương, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả mọi nhiệt não trong loài rồng. Rồng sợ nhất là ánh nắng mặt trời nóng, cho nên khi hành động thì dùng mây để che đỡ. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả ưu sầu phiền não của thế gian. Tuy nhiên thị hiện thọ sinh trong sáu cõi, mà không nhiễm trước tất cả thế gian.
Như tứ đại hà, nhuận trạch nhất thiết Diêm-phù-đề địa, ký nhuận trạch dĩ nhập ư đại hải. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ tứ trí hà nhuận trạch Thiên, nhân, Sa Môn, Bà-la-môn, lệnh kỳ phổ nhập A-nậu-đa-la tam-miệu-tam Bồ-đề trí tuệ đại hải, dĩ thập chủng lực nhi vi trang nghiêm. Hà giả vi tứ?
Nhất giả nguyện trí hà, cứu hộ điều phục nhất thiết chúng sanh thường bất hưu tức
Nhị giả Ba-la-mật trí hà, tu Bồ-đề hạnh nhiêu ích chúng sanh, khứ, lai, kim thế tướng tục vô tận, cứu cánh nhập ư chư Phật trí hải
Tam giả Bồ Tát tam muội trí hà, vô số tam muội dĩ vi trang nghiêm, kiến nhất thiết Phật, nhập chư Phật hải
Tứ giả đại bi trí hà, đại từ tự tại phổ cứu chúng sanh, phương tiện nhiếp thủ vô hữu hưu tức, tu hành bí mật công đức chi môn, cứu cánh nhập ư thập lực đại hải
Như bốn con sông lớn, thấm nhuần tất cả đất đai cõi Diêm Phù Đề. Thấm nhuần rồi, chảy vào trong biển cả. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng sông bốn trí, thấm nhuần trời, người, Sa môn, Bà la môn, khiến cho họ khắp vào biển trí huệ A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, dùng mười thứ lực để trang nghiêm. Những gì là bốn ?
Một là sông nguyện trí, cứu hộ điều phục tất cả chúng sinh, thường không ngừng nghỉ.
Hai là sông trí Ba la mật, tu hạnh bồ đề, lợi ích chúng sinh. Đời quá khứ, vị lai, hiện tại, liên tục vô tận, rốt ráo nhập vào biển trí của chư Phật.
Ba là sông trí tam muội của Bồ Tát, vô số tam muội, dùng để trang nghiêm. Thấy tất cả chư Phật, vào biển chư Phật.
Bốn là sông trí đại bi, đại từ tự tại, cứu khắp chúng sinh. Phương tiện nhiếp lấy, không có ngừng nghỉ. Tu hành môn công đức bí mật, rốt ráo nhập vào biển thập lực.
Giảng: Như nước bốn con sông lớn, thấm nhuần hết tất cả đất đai cõi Diêm Phù Đề. Thấm nhuần rồi, bèn chảy vào trong biển cả. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng sông bốn thứ trí huệ, để thấm nhuần trời, người, Sa môn, Bà la môn, khiến cho họ khắp vào biển trí huệ Vô thượng chánh đẳng chánh giác, dùng mười thứ lực để trang nghiêm. Những gì là bốn thứ sông trí ?
1. Sông nguyện trí : Hay cứu hộ tất cả chúng sinh, hay điều phục tất cả chúng sinh, không có lúc nào ngừng nghỉ.
2. Sông trí Ba la mật : Thường tu hạnh bồ đề, để lợi ích tất cả chúng sinh. Đời quá khứ, vị lai, hiện tại, liên tục vô tận, rốt ráo nhập vào biển trí của chư Phật.
3. Sông trí tam muội của Bồ Tát : Dùng vô số vô lượng tam muội, để trang nghiêm. Thấy được tất cả chư Phật, vào biển tất cả chư Phật.
4. Sông trí đại bi : Dùng tâm đại từ tự tại, để khắp cứu độ tất cả chúng sinh. Phương tiện khéo léo để nhiếp lấy tất cả chúng sinh, không có lúc nào ngừng nghỉ. Chuyên tu hành môn công đức bí mật, rốt ráo nhập vào biển thập lực.
Như tứ đại hà, tùng vô nhiệt trì ký lưu xuất dĩ, cứu cánh vô tận, nhập ư đại hải; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ đại nguyện lực tu Bồ Tát hạnh, tự tại tri kiến vô hữu cùng tận, cứu cánh nhập ư nhất thiết trí hải.
Như bốn con sông lớn, từ ao Vô Nhiệt chảy ra rồi, rốt ráo vô tận, nhập vào biển cả. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng đại nguyện lực, tu hạnh Bồ Tát, tự tại tri kiến không cùng tận, rốt ráo nhập vào biển Nhất thiết trí.
Giảng: Như bốn con sông lớn, từ ao lớn Vô Nhiệt chảy ra rồi, rốt ráo không hết được, mà chảy nhập vào biển cả. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng đại nguyện lực, để tu hạnh Bồ Tát, nhậm vận tự tại, chánh tri chánh kiến, không có lúc nào hết được, rốt ráo nhập vào biển Nhất thiết trí.
Như tứ đại hà, nhập ư đại hải, vô năng vi ngại lệnh bất nhập giả. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, thường cần tu tập Phổ Hiền hạnh nguyện, thành tựu nhất thiết trí tuệ quang minh, trụ ư nhất thiết Phật Bồ-đề Pháp, nhập Như Lai trí vô hữu chướng ngại.
Như bốn con sông lớn, nhập vào biển cả. Không có gì chướng ngại, khiến cho không nhập vào biển. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thường siêng tu tập hạnh nguyện Phổ Hiền, thành tựu nhất thiết trí huệ quang minh, trụ nơi pháp bồ đề của tất cả chư Phật, nhập vào trí của Như Lai, không có chướng ngại.
Giảng: Như bốn con sông lớn, nhập vào biển cả. Không có gì chướng ngại được, khiến cho không nhập vào biển. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thường siêng tu tập hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền, thành tựu quang minh nhất thiết trí huệ. Trụ trong pháp bồ đề của tất cả chư Phật, chứng được trí huệ của Như Lai, không có chướng ngại.
Như tứ đại hà, bôn lưu nhập hải, Kinh ư luy kiếp diệc vô bì yếm. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ Phổ Hiền hạnh nguyện, tận vị lai kiếp tu Bồ Tát hạnh, nhập Như Lai hải bất sanh bì yếm.
Như bốn con sông lớn, chảy thẳng vào biển, trải qua nhiều kiếp, cũng không nhàm mỏi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng hạnh nguyện Phổ Hiền, hết kiếp vị lai, tu Bồ Tát hạnh, vào biển Như Lai, chẳng sinh nhàm mỏi.
Giảng: Như bốn con sông lớn, chảy thẳng vào biển, trải qua vô số kiếp, cũng không có lúc nào nhàm chán mệt mỏi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, dùng hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, hết kiếp thuở vị lai, tu Bồ Tát hạnh, vào biển pháp của Như Lai, cũng chẳng sinh tâm nhàm mỏi.
Phật tử! như nhật quang xuất thời, vô nhiệt trì trung kim sa, ngân sa, Kim cương sa, lưu ly sa cập dư nhất thiết chủng chủng bảo vật, giai hữu nhật ảnh ư trung hiển hiện; kỳ kim sa đẳng nhất thiết bảo vật, diệc các triển chuyển nhi hiện kỳ ảnh, hỗ tương giám triệt, vô sở phương ngại.
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, trụ thử tam muội, ư tự thân nhất nhất mao khổng trung, tất kiến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Phật Như Lai, diệc kiến bỉ Phật sở hữu quốc độ đạo tràng chúng hội nhất nhất Phật sở thính pháp, thọ trì, tín giải, cúng dưỡng, các Kinh bất khả thuyết bất khả thuyết ức na-do-tha kiếp nhi bất tưởng niệm thời tiết trường đoản, kỳ chư chúng hội diệc vô bách ải.
Phật tử ! Như khi mặt trời mọc lên, cát vàng, cát bạc, các kim cương, cát lưu ly, và tất cả đủ thứ báu vật khác trong ao Vô Nhiệt, đều có bóng mặt trời hiện ra trong đó. Những cát vàng, cát bạc, cát kim cương, cát lưu ly, tất cả báu vật, cũng đều lần lượt hiện bóng, chiếu soi lẫn nhau, không có chướng ngại.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, trụ tam muội này, trong mỗi lỗ chân lông thân mình, đều thấy chư Phật Như Lai nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, cũng thấy hết thảy cõi nước đạo tràng chúng hội của các đức Phật đó. Ở chỗ mỗi đức Phật, nghe pháp thọ trì, tin hiểu cúng dường, đều trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết ức Na do tha kiếp, mà chẳng nghĩ nhớ thời tiết dài ngắn, các chúng hội đó cũng không bị chật hẹp.
Giảng: Các vị Phật tử ! Giống như khi mặt trời mọc lên, thì hết thảy cát vàng, cát bạc, các kim cương, cát lưu ly, và tất cả đủ thứ báu vật khác trong ao Vô Nhiệt, đều có bóng mặt trời hiện ra trong đó. Hết thảy tất cả cát vàng, cát bạc, cát kim cương, cát lưu ly, tất cả báu vật, mỗi thứ cũng đều lần lượt hiện ra hình bóng, chiếu soi lẫn nhau, không có chướng ngại.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, trụ tam muội này, trong mỗi lỗ chân lông thân mình, đều thấy chư Phật Như Lai nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, cũng thấy hết thảy cõi nước đạo tràng chúng hội của các đức Phật đó. Bồ Tát ở nơi đạo tràng của mỗi đức Phật, nghe Phật nói chánh pháp, thọ trì chánh pháp, tin hiểu Phật pháp, cúng dường Phật, thừa sự Phật, đều trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết ức na do tha kiếp, mà chẳng nghĩ nhớ thời gian dài ngắn, hết thảy mọi người ở trong chúng hội, cũng chẳng cảm giác chật hẹp.
Hà dĩ cố? dĩ vi diệu tâm, nhập vô biên pháp giới cố, nhập vô đẳng sái biệt nghiệp quả cố, nhập bất tư nghị tam muội cảnh giới cố, nhập bất tư nghị tư tánh cảnh giới cố, nhập nhất thiết Phật tự tại cảnh giới cố, đắc nhất thiết Phật sở hộ niệm cố, đắc nhất thiết Phật Đại thần biến cố, đắc chư Như Lai nan đắc nan tri thập chủng lực cố, nhập Phổ Hiền Bồ Tát hạnh viên mãn cảnh giới cố, đắc nhất thiết Phật vô lao quyện thần thông lực cố.
Tại sao ? Vì dùng tâm vi diệu, vào vô biên pháp giới. Vì vào vô đẳng sai biệt nghiệp quả. Vì vào cảnh giới tam muội không nghĩ bàn. Vì vào cảnh giới tư duy không nghĩ bàn. Vì vào cảnh giới tự tại của tất cả chư Phật. Vì được tất cả chư Phật hộ niệm. Vì được đại thần biến của tất cả chư Phật. Vì được mười thứ lực khó được khó biết của các Như Lai. Vì vào cảnh giới hạnh viên mãn của Bồ Tát Phổ Hiền. Vì được sức thần thông không mệt mỏi của tất cả chư Phật.
Giảng: Tại sao có những cảnh giới đó ? Do nguyên nhân gì ? Vì dùng tâm vi diệu không thể nghĩ bàn, mà đắc được mười thứ cảnh giới.
1. Vì vào được vô biên pháp giới.
2. Vì vào được nghiệp quả vô đẳng sai biệt.
3. Vì vào được cảnh giới tam muội không thể nghĩ bàn.
4. Vì vào được cảnh giới tư duy không thể nghĩ bàn.
5. Vì vào được cảnh giới tự tại của tất cả chư Phật.
6. Vì được tất cả chư Phật hộ niệm.
7. Vì đắc được đại thần biến của tất cả chư Phật.
8. Vì đắc được mười thứ lực khó được khó biết của tất cả chư Phật.
9. Vì vào được cảnh giới hạnh viên mãn của Bồ Tát Phổ Hiền.
10. Vì đắc được sức thần thông không mệt mỏi của tất cả chư Phật.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát tuy năng ư định nhất niệm nhập xuất, nhi diệc bất phế trường thời tại định, diệc vô sở trước; tuy ư cảnh giới vô sở y trụ, nhi diệc bất xả nhất thiết sở duyên; tuy thiện nhập sát-na tế, nhi vi lợi ích nhất thiết chúng sanh, hiện Phật thần thông vô hữu yếm túc; tuy đẳng nhập Pháp giới, nhi bất đắc kỳ biên; tuy vô sở trụ, vô hữu xứ sở, nhi hằng thú nhập nhất thiết trí đạo, dĩ iến hóa lực phổ nhập vô lượng chúng sanh chúng trung, cụ túc trang nghiêm nhất thiết thế giới; tuy ly thế gian điên đảo phân biệt, siêu quá nhất thiết phân biệt chi địa, diệc bất xả ư chủng chủng chư tướng; tuy năng cụ túc phương tiện thiện xảo, nhi cứu cánh thanh tịnh; tuy bất phân biệt Bồ Tát chư địa, nhi giai dĩ thiện nhập.
Phật tử ! Tuy đại Bồ Tát có thể ở trong định một niệm nhập xuất, nhưng cũng chẳng bỏ thời gian lâu dài ở trong định, cũng chẳng chấp trước.
Tuy nơi cảnh giới không nương trụ, nhưng cũng không xả bỏ tất cả sở duyên. Tuy khéo vào sát na tế, nhưng vì lợi ích tất cả chúng sinh, mà thị hiện thần thông của Phật, không nhàm đủ.
Tuy đồng vào pháp giới, nhưng không được bờ mé pháp giới. Tuy vô sở trụ, không có xứ sở, nhưng luôn nhập vào Nhất thiết trí đạo. Dùng sức biến hoá, khắp vào trong chúng vô lượng chúng sinh, trang nghiêm đầy đủ tất cả thế giới.
Tuy lìa phân biệt điên đảo của thế gian, vượt qua sự phân biệt tất cả các địa, cũng không xả bỏ đủ thứ các tướng. Tuy đầy đủ phương tiện khéo léo, nhưng rốt ráo thanh tịnh. Tuy không phân biệt các địa của Bồ Tát, nhưng đều đã khéo vào các địa.
Giảng: Các vị Phật tử ! Tuy đại Bồ Tát đều trụ ở trong định, một niệm có thể nhập, một niệm có thể xuất. Nhập định xuất định, nhậm vận tự tại, nhưng cũng chẳng bỏ thời gian lâu dài ở trong định, cũng chẳng chấp trước nơi định. Nhập xuất đều ở trong cảnh giới như như bất động, liễu liễu thường minh.
Tuy Bồ Tát ở trong cảnh giới, cũng không nương tựa cảnh giới, cũng không chấp trụ cảnh giới, nhưng cũng không xả bỏ tất cả sở duyên tiếp cận.
Tuy Bồ Tát có thể nhập định trong thời gian rất ngắn, nhưng vì lợi ích tất cả chúng sinh, mà thị hiện thần thông của chư Phật, không có khi nào nhàm mỏi và đầy đủ.
Tuy Bồ Tát đồng vào pháp giới, nhưng không được bờ mé pháp giới.
Tuy Bồ Tát vô sở trụ, không có xứ sở, nhưng luôn nhập vào đạo Nhất thiết trí. Dùng sức biến hoá, khắp vào vô lượng đại chúng trong chúng sinh, đầy đủ trang nghiêm tất cả thế giới.
Tuy Bồ Tát lìa khỏi tất cả phân biệt điên đảo của thế gian, vượt qua được tất cả địa phân biệt, nhưng Bồ Tát tức thế gian, lìa thế gian, không xả bỏ đủ thứ các tướng, tức cũng là tuy vượt xuất thế gian, nhưng không lìa khỏi tất cả tướng của thế gian.
Tuy Bồ Tát đầy đủ pháp môn phương tiện khéo léo, nhưng rốt ráo là diệu pháp thanh tịnh.
Tuy Bồ Tát không phân biệt các địa của Bồ Tát, nhưng đều đã khéo vào tất cả các địa, đạt được địa vị Đẳng giác (địa vị cao nhất của Bồ Tát).
Phật tử! thí như hư không, tuy năng dung thọ nhất thiết chư vật, nhi ly hữu vô.
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, tuy phổ nhập nhất thiết thế gian, nhi ly thế gian tưởng; tuy cần độ nhất thiết chúng sanh, nhi ly chúng sanh tưởng; tuy thâm tri nhất thiết pháp, nhi ly chư pháp tưởng; tuy lạc kiến nhất thiết Phật, nhi ly chư Phật tưởng; tuy thiện nhập chủng chủng tam muội, nhi tri nhất thiết pháp tự tánh giai như, vô sở nhiễm trước; tuy dĩ vô biên biện tài diễn vô tận Pháp cú, nhi tâm hằng trụ ly văn tự Pháp; tuy lạc quan sát vô ngôn thuyết Pháp, nhi hằng thị hiện thanh tịnh âm thanh; tuy trụ nhất thiết ly ngôn Pháp tế, nhi hằng thị hiện chủng chủng sắc tướng; tuy giáo hóa chúng sanh, nhi tri nhất thiết pháp tất cánh tánh không; tuy cần tu đại bi độ thoát chúng sanh, nhi tri chúng sanh giới vô tận vô tán;
Tuy liễu đạt Pháp giới thường trụ bất biến, nhi dĩ tam luân điều phục chúng sanh hằng bất hưu tức; tuy thường an trụ Như Lai sở trụ, nhi trí tuệ thanh tịnh, tâm vô bố úy, phân biệt diễn thuyết chủng chủng chư Pháp, chuyển ư Pháp luân thường bất hưu tức.
Phật tử ! Ví như hư không, tuy dung thọ tất cả sự vật, mà lìa có, không. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tuy khắp vào tất cả thế gian, mà lìa tưởng thế gian.
Tuy siêng độ tất cả chúng sinh, mà lìa tưởng chúng sinh. Tuy biết sâu tất cả các pháp, mà lìa tưởng các pháp. Tuy thích thấy tất cả chư Phật, mà lìa tưởng chư Phật. Tuy khéo nhập đủ thứ tam muội, mà biết tất cả pháp tự tánh đều như, không có nhiễm trước. Tuy dùng vô biên biện tài, diễn nói vô tận câu pháp, là tâm luôn trụ lìa pháp văn tự. Tuy thích quán sát nói pháp không lời, mà luôn thị hiện âm thanh thanh tịnh. Tuy trụ tất cả pháp tế lìa lời nói, mà luôn thị hiện đủ thứ sắc tướng. Tuy giáo hoá chúng sinh, mà biết tất cả pháp rốt ráo tánh không. Tuy siêng tu đại bi, độ thoát chúng sinh, mà biết cõi chúng sinh vô tận vô số.
Tuy thấu đạt pháp giới thường trụ không thay đổi, mà dùng ba luân điều phục chúng sinh, luôn không nghỉ ngơi. Tuy thường an trụ chỗ trụ của Như Lai, mà trí huệ thanh tịnh, tâm không sợ hãi, phân biệt diễn nói đủ thứ các pháp, chuyển bánh xe pháp, thường không nghỉ ngơi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như hư không, tuy dung thọ tất cả sự vật, mà lìa nghĩ tưởng có, không. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tuy Bồ Tát khắp đi đến tất cả thế gian, giáo hoá tất cả chúng sinh, nhưng lìa tưởng thế gian, hành sở vô sự, không chấp tất cả tướng. Tuy Bồ Tát siêng độ tất cả chúng sinh, nhưng lìa tưởng chúng sinh. Trong Kinh Kim Cang có nói :
« Tôi phải diệt độ tất cả chúng sinh,
Diệt độ tất cả chúng sinh rồi,
Mà không có một chúng sinh thật diệt độ ».
Đây là lìa tưởng chúng sinh. Tuy Bồ Tát biết sâu tất cả các pháp, nhưng lìa tưởng các pháp, nghĩa là không chấp nơi pháp, không chấp về tưởng. Tuy Bồ Tát thích thấy tất cả mười phương chư Phật ba đời, nhưng lìa tưởng chư Phật. Tuy Bồ Tát khéo nhập đủ thứ tam muội, nhưng biết tự tánh của tất cả các pháp đều không chỗ có, không chấp trước, đã đạt đến cảnh giới chẳng chấp trước, không nhiễm trước. Tuy Bồ Tát dùng vô biên biện tài, diễn nói vô tận câu pháp, nhưng tâm luôn trụ nơi pháp lìa văn tự. Do đó :
« Lìa tướng lời nói,
Lìa tướng văn tự,
Lìa tướng duyên tâm ».
Tuy Bồ Tát hoan hỉ quán sát nói pháp không lời, tức cũng là pháp vắng lặng, nhưng luôn thị hiện âm thanh thanh tịnh, vì chúng sinh diễn nói diệu pháp. Tuy Bồ Tát trụ tất cả pháp tế lìa lời nói, nhưng luôn thị hiện đủ thứ sắc tướng, tức cũng là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân. Tuy Bồ Tát giáo hoá tất cả chúng sinh, nhưng biết tất cả pháp rốt ráo tánh không. Tuy Bồ Tát siêng tu đại bi tâm, độ thoát tất cả chúng sinh, nhưng biết cõi chúng sinh vô tận vô số, chúng sinh tuy nhiên độ không hết, nhưng vẫn phải độ. Tuy Bồ Tát thấu đạt pháp giới thường trụ không thay đổi, nhưng dùng ba luân (thân, miệng, ý) để điều phục chúng sinh cang cường, luôn không nghỉ ngơi. Tuy Bồ Tát thường an trụ quả vị chỗ trụ của Như Lai, nhưng trí huệ thanh tịnh, tâm không sợ hãi, phân biệt diễn nói được đủ thứ diệu pháp, chuyển được bánh xe pháp vô thượng, thường không nghỉ ngơi.
Phật tử! thị vi Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ cửu Pháp giới tự tại Đại tam muội thiện xảo trí.
Phật tử ! Đó là đại tam muội Trí thiện xảo pháp giới tự tại thứ chín của đại Bồ Tát.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đó là đại tam muội Trí huệ thiện xảo pháp giới tự tại thứ chín của đại Bồ Tát tu.