Vô Ngại Luân Tam Muội

Phật tử! vân hà vi Bồ-Tát Ma-ha-tát vô ngại luân tam muội?
Phật tử ! Thế nào là tam muội Vô ngại luân của đại Bồ Tát ?
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị đệ tử của Phật ! Thế nào gọi là tam muội Vô ngại luân của đại Bồ Tát nên tu hành ?

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát nhập thử tam muội thời, trụ vô ngại thân nghiệp, vô ngại ngữ nghiệp, vô ngại ý nghiệp, trụ vô ngại Phật quốc độ, đắc vô ngại thành tựu chúng sanh trí, hoạch vô ngại điều phục chúng sanh trí, phóng vô ngại quang minh, hiện vô ngại quang minh võng, thị vô ngại quảng đại biến hóa, chuyển vô ngại thanh tịnh Pháp luân, đắc Bồ Tát vô ngại tự tại, phổ nhập chư Phật lực, phổ trụ chư Phật trí, tác Phật sở tác, tịnh Phật sở tịnh, hiện Phật thần thông, lệnh Phật hoan hỉ, hành Như Lai hạnh, trụ Như Lai đạo, thường đắc thân cận vô lượng chư Phật, tác chư Phật sự thiệu chư Phật chủng.
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát nhập tam muội này, thì trụ thân nghiệp vô ngại, lời nghiệp vô ngại, ý nghiệp vô ngại. Trụ cõi Phật vô ngại, được trí vô ngại thành tựu chúng sinh, được trí vô ngại điều phục chúng sinh. Phóng quang minh vô ngại, hiện lưới quang minh vô ngại, thị hiện biến hoá rộng lớn vô ngại, chuyển bánh xe pháp thanh tịnh vô ngại. Được tự tại vô ngại của Bồ Tát, khắp vào lực của chư Phật, khắp trụ trí huệ của chư Phật, làm những gì Phật làm, tịnh những gì Phật tịnh, hiện thần thông của Phật, khiến cho Phật hoan hỉ. Thực hành những gì Phật thực hành, trụ đạo của Như Lai. Thường được gần gũi vô lượng chư Phật, làm các Phật sự, tiếp nối hạt giống của chư Phật.
Giảng: Các vị Phật tử ! Vị đại Bồ Tát này tu hành Bồ Tát đạo, viên mãn lục độ vạn hạnh, tích tụ đủ thứ căn lành. Khi Ngài chứng được tam muội Vô ngại luân, trụ nơi thân nghiệp vô ngại, trụ nơi lời nghiệp vô ngại, trụ nơi ý nghiệp vô ngại. Trụ cõi Phật vô ngại, đắc được trí huệ thành tựu chúng sinh không chướng ngại, đắc được trí huệ điều phục chúng sinh không chướng ngại. Phóng ra trí huệ quang minh không chướng ngại, hiện ra lưới quang minh trí huệ không chướng ngại, thị hiện biến hoá rộng lớn không chướng ngại, thường chuyển bánh xe pháp thanh tịnh không chướng ngại. Đắc được nhậm vận tự tại không chướng ngại của Bồ Tát.
Vị Bồ Tát này lại khắp vào mười lực của tất cả chư Phật, lại khắp trụ trí huệ của tất cả chư Phật, lại làm những gì mà tất cả chư Phật làm, lại thanh tịnh cõi nước mà tất cả chư Phật thanh tịnh, lại thị hiện thần thông của tất cả chư Phật, khiến cho mười phương chư Phật hoan hỉ tán thán. Lại thực hành những gì Phật thực hành, lại trụ đạo của tất cả chư Phật. Lại thường được gần gũi vô lượng chư Phật, lại thường làm việc của tất cả chư Phật, lại tiếp nối hạt giống của tất cả chư Phật.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội dĩ, quán nhất thiết trí, tổng quán nhất thiết trí, biệt quán nhất thiết trí, tùy thuận nhất thiết trí, hiển thị nhất thiết trí, phàn duyên nhất thiết trí, kiến nhất thiết trí, tổng kiến nhất thiết trí, biệt kiến nhất thiết trí.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này rồi, quán nhất thiết trí, tổng quán nhất thiết trí, biệt quán nhất thiết trí. Tuỳ thuận nhất thiết trí, hiển bày nhất thiết trí, phan duyên nhất thiết trí. Thấy nhất thiết trí, tổng thấy nhất thiết trí, biệt thấy nhất thiết trí.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này rồi, hay quán sát nhất thiết trí huệ. Lại hay tổng quát để quán sát nhất thiết trí huệ. Lại hay phân biệt để quán sát nhất thiết trí huệ. Lại hay tuỳ thuận nhất thiết trí huệ. Lại hay hiển bày nhất thiết trí huệ. Lại hay phan duyên nhất thiết trí huệ. Lại hay thấy được nhất thiết trí huệ. Lại hay tổng quát thấy được nhất thiết trí huệ. Lại hay phân biệt thấy được nhất thiết trí huệ.

Ư Phổ Hiền Bồ Tát quảng đại nguyện, quảng đại tâm, quảng đại hạnh, quảng đại sở thú, quảng đại sở nhập, quảng đại quang minh, quảng đại xuất hiện, quảng đại hộ niệm, quảng đại biến hóa, quảng đại đạo, bất đoạn bất thoái, vô hưu vô thế, vô quyện vô xả, vô tán vô loạn, thường tăng tiến, hằng tướng tục.
Hà dĩ cố? thử Bồ-Tát Ma-ha-tát ư chư Pháp trung, thành tựu đại nguyện, phát hạnh Đại-Thừa, nhập ư Phật Pháp đại phương tiện hải; dĩ thắng nguyện lực, ư chư Bồ-tát sở hạnh chi hành, trí tuệ minh chiếu giai đắc thiện xảo, cụ túc Bồ Tát thần thông biến hóa, thiện năng hộ niệm nhất thiết chúng sanh; như khứ, lai, kim nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm, ư chư chúng sanh hằng khởi đại bi, thành tựu Như Lai bất biến dị pháp.
Nơi Bồ Tát Phổ Hiền, nguyện rộng lớn, tâm rộng lớn, hạnh rộng lớn, thú hướng rộng lớn, sở nhập rộng lớn, quang minh rộng lớn, xuất hiện rộng lớn, hộ niệm rộng lớn, biến hoá rộng lớn, đạo rộng lớn, không dứt, không lùi, không nghỉ, không đổi, không mệt, không bỏ, không tán, không loạn, thường tăng tấn, luôn liên tục.
Tại sao ? Vì đại Bồ Tát này ở trong các pháp, thành tựu nguyện lớn, phát tâm tu hành đại thừa, vào biển đại phương tiện Phật pháp, dùng nguyện lực thù thắng, nơi hạnh của các Bồ Tát tu hành, trí huệ chiếu sáng, đều được khéo léo. Đầy đủ thần thông biến hoá của Bồ Tát, khéo hộ niệm tất cả chúng sinh, như tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại hộ niệm, đối với các chúng sinh luôn khởi tâm đại bi, thành tựu pháp không biến đổi của Như Lai.
Giảng: Nơi Bồ Tát Phổ Hiền, nguyện lực rộng lớn, tâm rộng lớn, tu hành rộng lớn, thú hướng rộng lớn, sở nhập rộng lớn, quang minh rộng lớn, xuất hiện rộng lớn, hộ niệm rộng lớn, biến hoá rộng lớn, đạo rộng lớn, cũng không dứt hẳn, cũng không thối lùi, cũng không nghỉ ngơi, cũng không biến đổi, không mệt mỏi, không xả bỏ, không tán mất, không mê loạn, thường tinh tấn hướng về trước, siêng tu đạo của Bồ Tát tu, thường liên tục không dứt, không nghỉ ngơi.
Đây là nguyên nhân gì ? Vì vị đại Bồ Tát này đối với tâm bồ đề, luôn luôn tăng tấn, liên tục không ngừng. Cho nên, ở trong tất cả các pháp, thành tựu nguyện lớn đã phát ra, phát tâm bồ đề đại thừa, vào biển đại phương tiện Phật pháp, dùng nguyện lực thù thắng, đối với hạnh môn của tất cả Bồ Tát tu hành, dùng trí huệ để chiếu sáng, đều được pháp phương tiện khéo léo. Đầy đủ hết thảy thần thông biến hoá của tất cả Bồ Tát, khéo hộ niệm tất cả chúng sinh, như tất cả chư Phật ba đời quá khứ vị lai hiện tại hộ niệm. Đối với hết thảy tất cả chúng sinh, luôn sinh tâm đại bi, thành tựu pháp không biến đổi, tuỳ duyên không đổi, không đổi tuỳ duyên của chư Phật.

Phật tử! thí như hữu nhân dĩ ma-ni bảo trí sắc y trung, kỳ ma-ni bảo tuy đồng y sắc, bất xả tự tánh. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, thành tựu trí tuệ dĩ vi tâm bảo, quán nhất thiết trí phổ giai minh hiện, nhiên bất xả ư Bồ Tát chư hạnh.
Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát phát đại thệ nguyện, lợi ích nhất thiết chúng sanh, độ thoát nhất thiết chúng sanh, thừa sự nhất thiết chư Phật, nghiêm tịnh nhất thiết thế giới, an uý chúng sanh, thâm nhập pháp hải; vi tịnh chúng sanh giới, hiện đại tự tại, cấp thí chúng sanh, phổ chiếu thế gian, nhập ư vô biên huyễn hóa Pháp môn, bất thoái bất chuyển, vô bì vô yếm.
Phật tử ! Ví như có người, dùng ma ni báu để vào trong y phục màu sắc. Ma ni báu đó, tuy đồng với màu sắc y phục, mà không bỏ tự tánh. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thành tựu trí huệ dùng làm tâm báu. Quán nhất thiết trí đều hiện rõ khắp, mà không bỏ các hạnh của Bồ Tát.
Tại sao ? Vì đại Bồ Tát phát đại thệ nguyện, lợi ích tất cả chúng sinh, độ thoát tất cả chúng sinh, thừa sự tất cả chư Phật, nghiêm tịnh tất cả thế giới, an ổn chúng sinh, vào sâu biển pháp. Vì tịnh cõi chúng sinh, mà hiện đại tự tại, thí cho chúng sinh, chiếu khắp thế gian, vào vô biên pháp môn huyễn hoá, chẳng thối chuyển, chẳng mỏi nhàm.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như có người, dùng châu báu ma ni báu để vào trong y phục màu sắc. Ánh sáng châu báu ma ni đó, tuy đồng với màu sắc y phục, nhưng tự tánh của châu báu vẫn tồn tại, chẳng bỏ đi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, thành tựu đại trí đại huệ dùng làm tâm báu. Dùng diệu quán sát trí để quán sát nhất thiết trí, đều hiện rõ khắp, mà không bỏ các hạnh của Bồ Tát tu. Đây là nguyên nhân gì ? Vì đại Bồ Tát phát đại bốn hoằng thệ nguyện :
« Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành ».

Nguyện lợi ích tất cả chúng sinh, độ thoát tất cả chúng sinh. Thừa sự mười phương ba đời tất cả chư Phật, trang nghiêm thanh tịnh tất cả thế giới. An ổn chúng sinh, khiến cho họ vào sâu biển pháp tánh của tất cả chư Phật. Vì thanh tịnh cõi chúng sinh, mà thị hiện cảnh giới đại tự tại vô ngại. Thường hành bố thí cho chúng sinh, khiến cho họ được pháp ích. Dùng trí huệ quang minh để chiếu khắp tất cả thế gian, khiến cho đen tối thành ánh sáng. Khiến cho tất cả chúng sinh, đều đắc được đại trí huệ. Bồ Tát biết tất cả đều như huyễn, như hoá, cho nên chẳng chấp trước vào bất cứ sự việc gì. Hay vào vô biên pháp môn huyễn hoá, chẳng thối chuyển, chẳng mỏi nhàm, quán triệt thuỷ chung, hành Bồ Tát đạo, cứu chúng sinh thoát khỏi biển khổ.

Phật tử! thí như hư không trì chúng thế giới, nhược thành nhược trụ, vô yếm vô quyện, vô luy vô hủ, vô tán vô hoại, vô biến vô dị, vô hữu sái biệt, bất xả tự tánh. Hà dĩ cố? hư không tự tánh, Pháp ưng nhĩ cố. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, lập vô lượng đại nguyện, độ nhất thiết chúng sanh, tâm vô yếm quyện.
Phật tử ! Ví như hư không chi trì các thế giới. Hoặc thành, hoặc trụ, không nhàm, không mỏi, không gầy, không hư, không tan, không hoại, không đổi, không khác, không có khác biệt, chẳng bỏ tự tánh. Tại sao ? Vì tự tánh hư không là như vậy. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, lập vô lượng đại nguyện, độ tất cả chúng sinh, tâm không nhàm mỏi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như hư không, hay chi trì hết thảy thế giới, hoặc thế giới thành, hoặc thế giới trụ, hoặc thế giới hoại, hoặc thế giới không. Trong tự tánh của hư không chẳng có nhàm chán, chẳng có mỏi mệt; không có gầy ốm, không có hư mục, không tan mất, không phá hoại; không biến đổi, không có hai dạng. Bất cứ trong tình huống nào, hư không chẳng có tâm phân biệt, cũng chẳng có bỏ lìa tự tánh. Tại sao ? Vì tự tánh hư không là như vậy. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, phát ra vô lượng đại nguyện, độ thoát tất cả chúng sinh, đó là bổn phận của Bồ Tát, độ thoát chúng sinh làm sự nghiệp. Tuy độ chúng sinh, mà không chấp trước độ chúng sinh, vì hành sở vô sự, cho nên tâm không nhàm mỏi.

Phật tử! thí như Niết-Bàn, khứ, lai, hiện tại vô lượng chúng sanh ư trung diệt độ, chung vô yếm quyện. Hà dĩ cố? nhất thiết chư pháp bổn tánh thanh tịnh, Thị vị: Niết-Bàn, vân hà ư trung nhi hữu yếm quyện?
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, vi dục độ thoát nhất thiết chúng sanh giai lệnh xuất ly nhi hiện ư thế, vân hà nhi khởi bì yếm chi tâm?
Phật tử ! Ví như Niết Bàn, quá khứ vị lại hiện tại vô lượng chúng sinh, ở trong sự diệt độ, mà trọn không nhàm mỏi. Tại sao ? Vì tất cả các pháp bổn tánh thanh tịnh, đó là Niết Bàn, làm sao trong đó có sự nhàm mỏi.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì muốn độ thoát tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều thoát khỏi, mà hiện ra đời, sao lại khởi tâm nhàm mỏi.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như Niết Bàn (không sinh không diệt), trong quá khứ, vị lại, hiện tại, ba đời vô lượng chúng sinh, đều ở trong sự diệt độ, mà trọn không nhàm mỏi. Tại sao ? Vì bổn tánh của tất cả các pháp thanh tịnh không nhiễm, đó là Niết Bàn. Tức nhiên là thanh tịnh, sao lại có sự nhàm mỏi ? Nếu có sự nhàm mỏi thì chẳng thanh tịnh, chẳng thanh tịnh thì có sinh tử, thanh tịnh thì không sinh tử.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì muốn độ thoát tất cả chúng sinh, khiến cho họ đều thoát khỏi ba cõi, cho nên Bồ Tát mới thị hiện ra đời. Tức nhiên là cam tâm tình nguyện vô điều kiện để độ chúng sinh, sao lại có tâm nhàm mỏi ?

Phật tử! như Tát bà nhã, năng lệnh quá khứ, vị lai, hiện tại nhất thiết Bồ Tát, ư chư Phật gia dĩ, hiện, đương sanh, nãi chí lệnh thành vô thượng Bồ-đề, chung bất bì yếm. hà dĩ cố? nhất thiết trí dữ Pháp giới vô nhị cố, ư nhất thiết Pháp vô sở trước cố. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, kỳ tâm bình đẳng trụ nhất thiết trí, vân hà nhi hữu bì yếm chi tâm?
Phật tử ! Như Tát bà nhạ, hay khiến tất cả Bồ Tát quá khứ vị lai hiện tại, đã sinh, sẽ sinh, đang sinh vào nhà chư Phật, cho đến khiến cho thành tựu vô thượng bồ đề, trọn không nhàm mỏi. Tại sao ? Vì nhất thiết trí với pháp giới không hai, vì nơi tất cả pháp không chấp trước. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tâm của Ngài bình đẳng, trụ nhất thiết trí, sao lại có tâm nhàm mỏi.
Giảng: Phật tử ! Như Tát bà nhạ (nhất thiết trí), hay khiến tất cả Bồ Tát trong quá khứ, vị lai, hiện tại, ba đời, đều sinh vào trong nhà của chư Phật, hoặc đã sinh vào nhà của chư Phật, hoặc vị lai sẽ sinh vào nhà của chư Phật, hoặc hiện tại đang sinh vào nhà chư Phật, cho đến khiến cho tất cả chúng sinh thành tựu vô thượng bồ đề, trọn không nhàm mỏi. Tại sao ? Vì thể tánh của nhất thiết trí và pháp giới là một chẳng phải hai. Người có trí huệ, chẳng chấp vào tất cả các pháp, tức cũng là không có pháp chấp. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tâm của Ngài bình đẳng, trụ nơi nhất thiết trí, thì làm sao lại có tâm nhàm mỏi ? Tuyệt đối không có.

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát hữu nhất liên hoa, kỳ hoa quảng đại tận thập phương tế, dĩ bất khả thuyết diệp, bất khả thuyết bảo, bất khả thuyết hương nhi vi trang nghiêm; kỳ bất khả thuyết bảo, phục các thị hiện chủng chủng chúng bảo, thanh tịnh diệu hảo, cực thiện an trụ. kỳ hoa thường phóng chúng sắc quang minh, phổ chiếu thập phương nhất thiết thế giới vô sở chướng ngại; chân kim vi võng, di phước kỳ thượng; bảo đạc từ diêu, xuất vi diệu âm, kỳ âm diễn sướng nhất thiết trí Pháp.
Phật tử ! Đại Bồ Tát này có một hoa sen. Hoa sen đó rộng lớn, tận cùng bờ mé mười phương. Dùng bất khả thuyết lá, bất khả thuyết báu, bất khả thuyết hương, để trang nghiêm. Bất khả thuyết báu đó, mỗi thứ lại thị hiện đủ thứ các báu, thanh tịnh tốt đẹp, rất khéo an trụ.
Hoa sen đó thường phóng ra các màu sắc quang minh, chiếu khắp mười phương tất cả thế giới, không có sự chướng ngại. Vàng thật làm lưới, giăng che phía trên. Linh báu lay động vang ra âm thanh vi diệu, âm thanh đó diễn xướng pháp nhất thiết trí.
Giảng: Các vị Phật tử ! Vị đại Bồ Tát này, Ngài có một đoá hoa sen lớn. Hoa sen đó đặc biệt rộng lớn, thể tích của nó tận cùng bờ mé mười phương. Dùng bất khả thuyết lá, và bất khả thuyết báu, cùng với bất khả thuyết hương, để trang nghiêm hoa sen lớn đó. Trong bất khả thuyết báu đó, mỗi thứ lại thị hiện đủ thứ các báu, thanh tịnh không nhiễm, tốt đẹp trang nghiêm, rất khéo an trụ.
Hoa sen đó thường phóng ra các màu sắc quang minh, chiếu khắp mười phương tất cả thế giới, không có mọi sự chướng ngại. Dùng vàng thật làm lưới báu, giăng che phía trên hoa sen lớn đó. Phía trên hoa sen báu đó, lại có vô lượng linh báu lay động nhẹ nhàng, vang ra âm thanh vi diệu rất êm tai, khiến cho tất cả chúng sinh nghe được âm thanh này, tâm rất hoan hỉ, quên mất phiền não, quên luôn sự đói khát. Tại sao ? Vì tinh thần tập trung lắng nghe âm thanh hay, cho nên mới có cảnh giới đó. Trong âm thanh đó, diễn xướng pháp nhất thiết trí, khiến cho người nghe phát tâm bồ đề, hành Bồ Tát đạo, khai mở đại trí huệ.

Thử đại liên hoa cụ túc Như Lai thanh tịnh trang nghiêm, nhất thiết thiện căn chi sở sanh khởi, cát tường vi biểu, thần lực sở hiện, hữu thập thiên a-tăng-kì thanh tịnh công đức, Bồ Tát diệu đạo chi sở thành tựu, nhất thiết trí tâm chi sở lưu xuất, thập phương Phật ảnh ư trung hiển hiện, thế gian chiêm ngưỡng do như Phật tháp, chúng sanh kiến giả vô bất lễ kính, tùng năng liễu huyễn chánh pháp sở sanh, nhất thiết thế gian bất khả vi dụ. Bồ-Tát Ma-ha-tát ư thử hoa thượng kết già phu tọa, kỳ thân đại tiểu dữ hoa tướng xưng.
Hoa sen lớn đó, đầy đủ thanh tịnh trang nghiêm của Như Lai. Do tất cả căn lành sinh ra, tiêu biểu sự cát tường, sự hiển hiện thần lực. Có mười ngàn A tăng kỳ công đức thanh tịnh. Chỗ thành tựu diệu đạo của Bồ Tát, chỗ chảy ra tâm nhất thiết trí. Hình bóng mười phương chư Phật, hiển hiện ra trong đó. Thế gian chiêm ngưỡng, giống như tháp của Phật. Chúng sinh thấy được, thảy đều lễ kính. Từ chỗ thấu rõ chánh pháp huyễn sinh ra, tất cả thế gian không thể ví dụ được. Đại Bồ Tát ngồi kiết già trên hoa sen đó, thân Ngài không lớn nhỏ, rất tương xứng với hoa sen.
Giảng: Đoá hoa sen lớn đó, đầy đủ sự thanh tịnh trang nghiêm của chư Phật. Đó là do tất cả căn lành sinh ra, tiêu biểu bên ngoài để quán, hoa sen đó cát tường dị thường, đó là thần lực của Bồ Tát hiện ra, cũng nhờ mười phương chư Phật gia bị sở hiện. Đoá hoa sen lớn đó, có mười ngàn A tăng kỳ công đức thanh tịnh thành tựu, cũng là sự tu hành lục độ vạn hạnh của Bồ Tát thành tựu. Đó là từ tâm nhất thiết trí chảy ra. Hình bóng của mười phương chư Phật, đều hiển hiện ra trong hoa sen. Tất cả chúng sinh thế gian chiêm ngưỡng đoá hoa sen lớn đó, giống như bảo tháp của Phật. Hết thảy chúng sinh, phàm thấy được đoá hoa sen đó, thảy đều cung kính lễ bái. Đoá hoa sen đó là từ chỗ thấu rõ chánh pháp huyễn sinh ra, tất cả lời lẽ và văn tự thế gian không cách chi hình dung, không thể nào ví dụ được.
Người có duyên, mới nghe được Phật pháp, mà sinh tín tâm. Người không có duyên, nghe pháp cũng không sinh tâm tin, chẳng gần gũi thiện tri thức. Do đó :
« Nước mưa tuy nhiều,
Nhưng không thấm nhuần cây không rễ
Cửa Phật tuy rộng,
Nhưng khó độ người vô duyên ».
Người có căn lành, mới có cơ hội nghe được Phật pháp; người chẳng có căn lành, không thể nghe được Phật pháp. Chúng ta đều là người có căn lành, vì kiếp trước đã tu căn lành, cho nên đời này nghe được chánh pháp. Hiện tại phải thương tiếc căn lành, phải tài bồi căn lành, khiến cho nó sinh rễ, khiến cho nó nở hoa, khiến cho nó kết quả. Cũng có nghĩa là khiến cho căn lành của mình tăng trưởng, khiến cho căn lành của mình thành thục. Khi căn lành thành thục thì liền được giải thoát.
Đại Bồ Tát ngồi kiết già trên hoa sen báu lớn đó, thân Ngài lớn nhỏ, rất tương xứng với hoa sen. Tóm lại, hoa sen lớn bao nhiêu, thì thân Bồ Tát lớn bấy nhiêu, đó là biểu thị tự nội mà quán, lượng chu sa giới; tự ngoại mà quán, hộ chúng quán xem. Cho nên, cảnh giới tức nhỏ tức lớn.
Ngồi kiết già còn gọi là ngồi kim cang, còn gọi là ngồi hoa sen, còn gọi là ngồi tu di, tuy nhiên danh từ khác nhau, nhưng tư thế đều giống nhau, tác dụng như nhau. Pháp ngồi này, sinh ra tất cả chánh định, sinh ra tất cả chánh thọ. Từ trong sự ngồi kiết già này, sinh ra trăm ngàn vạn ức môn tam muội.
Tại sao gọi là ngồi kim cang ? Vì tư thế ngồi này rất là kiên cố, hay hàng phục thiên ma, chế các ngoại đạo. Dùng định thắng động, dùng định thắng loạn, vì định lực này, vượt qua tất cả pháp thuật của ma vương (còn gọi là ngồi hàng ma). Nếu ngồi được kiết già, thì sẽ có cảnh giới như như bất động, rõ ràng sáng suốt. Tự nhiên sinh ra đại định Lăng Nghiêm, vì định lực này từ trong tâm kim cang sinh ra, nên gọi là ngồi kim cang.
Tại sao gọi là ngồi hoa sen ? Vì tư thế ngồi giống như hoa sen. Lại vì thường ngồi trên hoa sen, biểu thị thân nhẹ mà có định lực. Lại có ý nghĩa thủ hoa sen tạng thế giới, nên gọi là ngồi hoa sen, còn gọi là ngồi cát tường.
Tại sao gọi là ngồi tu di ? Vì tư thế ngồi này, giống như núi Tu Di, an ổn bất động, lớn mà không ngoài, nhỏ mà chẳng trong. Tận hư không khắp pháp giới, đầy dẫy quang minh, nên gọi là ngồi tu di.

Nhất thiết chư Phật thần lực sở gia, lệnh Bồ Tát thân nhất nhất mao khổng các xuất bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh, nhất nhất quang minh hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số ma ni bảo, kỳ bảo giai danh: phổ quang minh tạng, chủng chủng sắc tướng dĩ vi trang nghiêm, vô lượng công đức chi sở thành tựu, chúng bảo cập hoa dĩ vi la võng di phước kỳ thượng, tán bách thiên ức na-do-tha thù thắng diệu hương, vô lượng sắc tướng chủng chủng trang nghiêm, phục hiện bất tư nghị bảo trang nghiêm cái dĩ phước kỳ thượng.
Được thần lực của tất cả chư Phật gia bị, khiến cho mỗi lỗ chân lông trên thân Bồ Tát, đều phóng ra quang minh nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi quang minh, đều hiện ra ma ni báu nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Các ma ni báu đó đều gọi là phổ quang minh minh tạng, đủ thứ sắc tướng dùng để trang nghiêm. Thành tựu vô lượng công đức, các báu và hoa dùng làm lưới la, giăng che phía trên. Rải trăm ngàn ức Na do tha hương thơm thù thắng, có vô lượng sắc tướng đủ thứ sự trang nghiêm. Lại hiện lọng báu trang nghiêm không nghĩ bàn để che phía trên.
Giảng: Được thần lực của tất cả mười phương chư Phật ba đời gia bị, khiến cho mỗi lỗ chân lông trên toàn thân Bồ Tát, đều phóng ra quang minh. Trong mỗi lỗ chân lông, đều phóng ra quang minh, nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Trong mỗi luồng quang minh, lại hiện ra ma ni báu nhiều như số hạt bụi trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Các ma ni báu đó, đều đồng một tên, đều gọi là phổ quang minh minh tạng. Quang minh đó, chiếu khắp mười phương bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới, chúng sinh ở trong mỗi thế giới, thọ được quang minh đó chiếu sáng, không lâu liền thành tựu Phật đạo.
Các ma ni báu đó, phóng ra đủ thứ vô lượng quang minh. Dùng đủ thứ sắc tướng dùng để trang nghiêm. Cảnh giới đó, do Bồ Tát tu vô lượng công đức mà thành tựu. Dùng các báu và hoa để làm lưới la, giăng che phía trên hoa sen báu lớn, khắp rải trăm ngàn ức na do tha hương thơm đặc biệt thù thắng. Vô lượng sắc tướng có đủ thứ sự trang nghiêm. Lại hiện lọng báu trang nghiêm không thể nghĩ bàn, ở trong hư không để che phía trên hoa sen báu lớn.

Nhất nhất ma-ni bảo tất hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số lâu các; nhất nhất lâu các hiện bách vạn ức na do tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số liên hoa tạng sư tử chi tọa; nhất nhất sư tử tọa hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh; nhất nhất quang minh hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số sắc tướng; nhất nhất sắc tướng hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số quang minh luân; nhất nhất quang minh luân hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số Tì Lô-giá-na ma-ni bảo hoa; nhất nhất hoa hiện bách vạn ức na do tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số đài; nhất nhất đài hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật; nhất nhất Phật hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số thần biến; nhất nhất thần biến tịnh bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh chúng
Mỗi ma ni báu, đều hiện lầu các nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi lầu các, lại hiện ra toà sư tử liên hoa tạng, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Mỗi toà sư tử, lại hiện ra quang minh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi quang minh, lại hiện ra sắc tướng, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức bất khả thuyết cõi Phật.
Mỗi sắc tướng, lại hiện ra quang minh luân, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi quang minh luân, lại hiện ra hoa báu ma ni tỳ lô giá na, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Mỗi hoa báu, lại hiện ra đài, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi đài, lại hiện ra chư Phật, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Mỗi vị Phật, lại hiện thần biến, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi thần biến, thanh tịnh cõi chúng sinh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Giảng: Trong mỗi hạt ma ni báu, đều hiện ra lầu các nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Trong mỗi lầu các, lại hiện ra toà sư tử liên hoa tạng, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Trong mỗi toà sư tử, lại hiện ra quang minh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Trong mỗi quang minh, lại hiện ra sắc tướng, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức bất khả thuyết cõi Phật.
Trong mỗi thứ sắc tướng, lại hiện ra quang minh luân, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Trong mỗi quang minh luân, lại hiện ra hoa báu ma ni tỳ lô giá na, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Trong mỗi đoá hoa báu, lại hiện ra đài, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Trong mỗi toà đài, lại hiện ra chư Phật, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Trong mỗi vị Phật, lại hiện thần biến, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Trong mỗi thứ thần biến, thanh tịnh cõi chúng sinh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật.

Nhất nhất chúng sanh chúng trung hiện bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Phật tự tại; nhất nhất tự tại vũ bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật Pháp; nhất nhất Phật Pháp hữu bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số tu-đa-la; nhất nhất tu-đa-la thuyết bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số Pháp môn; nhất nhất Pháp môn hữu bách vạn ức na do tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số Kim Cương trí sở nhập Pháp luân, sái biệt ngôn từ các biệt diễn thuyết; nhất nhất Pháp luân thành thục bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh giới; nhất nhất chúng sanh giới hữu bách vạn ức na-do-tha bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh, ư Phật Pháp trung nhi đắc điều phục.
Trong mỗi chúng sinh, lại hiện ra tự tại của chư Phật, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi tự tại, mưa Phật pháp, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Mỗi Phật pháp, lại có Tu đa la, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi Tu đa la, diễn nói pháp môn, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Mỗi pháp môn, lại có kim cang trí nhập vào pháp luân, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật, những lời lẽ đều khác biệt, đều diễn nói khác nhau. Mỗi pháp luân, thành thục cõi chúng sinh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Mỗi cõi chúng sinh, lại có chúng sinh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức Na do tha bất khả thuyết cõi Phật, ở trong Phật pháp được điều phục.
Giảng: Ở trong mỗi chúng sinh, lại hiện ra tự tại của chư Phật, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Ở trong mỗi thứ tự tại, mưa Phật pháp, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Ở trong mỗi Phật pháp, lại có Tu đa la (kinh điển), nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật. Ở trong mỗi Tu đa la, diễn nói pháp môn, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Ở trong mỗi thứ pháp môn, lại có kim cang trí, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật, chứng được pháp luân, lời lẽ khác biệt, đều diễn nói khác nhau. Ở trong mỗi pháp luân, thành thục cõi chúng sinh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật.
Ở trong mỗi cõi chúng sinh, lại có chúng sinh, nhiều như số hạt bụi trăm vạn ức na do tha bất khả thuyết cõi Phật, ở trong Phật pháp được điều phục. Những cảnh giới ở trên, sum la vạn tượng, thật là không thể nghĩ bàn.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, thị hiện như thị thần thông cảnh giới vô lượng biến hóa, tất tri như huyễn nhi bất nhiễm trước, an trụ vô biên bất khả thuyết Pháp. Tự tánh thanh tịnh, Pháp giới thật tướng, Như Lai chủng tánh, vô ngại tế trung, vô khứ vô lai, phi tiên phi hậu, thậm thâm vô để, hiện lượng sở đắc, dĩ trí tự nhập, bất do tha ngộ. Tâm bất mê loạn diệc vô phân biệt.
Phật tử ! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, thị hiện cảnh giới thần thông như vậy, vô lượng sự biến hoá, đều biết như huyễn, nên không chấp trước. An trụ vô biên bất khả thuyết pháp, tự tánh thanh tịnh, pháp giới thật tướng. Trong chủng tánh không bờ mé của Như Lai, không đến, không đi, chẳng trước, chẳng sau, thâm sâu không đáy. Hiện lượng sở đắc, dùng trí tự vào, chẳng do người khác mà ngộ, tâm chẳng mê loạn, cũng không phân biệt.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát khi trụ tam muội này, thì thị hiện cảnh giới thần thông như vậy, diệu dụng biến hoá, tự có hoá không, tự không hoá có, vô lượng vô biên. Bồ Tát đều biết tất cả sự biến hoá, như huyễn như hoá, cho nên không nhiễm trước, không tham luyến, an trụ trong vô biên bất khả thuyết pháp. Tự tánh là thanh tịnh, pháp giới là thật tướng. Thật tướng là tướng như thật, cũng là vô tướng, tướng không hư vọng, nhưng vô sở bất tướng. Chứng được chủng tánh của Như Lai, ở trong cảnh giới chẳng có chướng ngại, cũng không đến, cũng không đi, cũng chẳng trước, cũng chẳng sau, pháp đó thâm sâu không đáy. Dùng hiện lượng sở đắc, dùng trí huệ mà tự vào, chẳng phải do người khác giúp đỡ mà khai ngộ, tâm của Bồ Tát chẳng mê loạn, cũng không phân biệt.

Vi khứ, lai, kim nhất thiết chư Phật chi sở xưng tán, tùng chư Phật lực chi sở lưu xuất, nhập ư nhất thiết chư Phật cảnh giới. Thể tánh như thật, Tịnh nhãn hiện chứng, Tuệ-nhãn phổ kiến, thành tựu Phật nhãn vi thế minh đăng, hành ư trí nhãn sở tri cảnh giới, quảng năng khai thị vi diệu Pháp môn.
Được tất cả chư Phật quá khứ vị lai hiện tại khen ngợi, từ lực của chư Phật chảy ra, vào tất cả cảnh giới của chư Phật, thể tánh như thật. Mắt thanh tịnh hiện chứng, mắt trí huệ thấy khắp, thành tựu mắt của Phật, làm đèn sáng cho thế gian. Tu hành mắt trí huệ, biết được cảnh giới, rộng khai thị pháp môn vi diệu.
Giảng: Cảnh giới của Bồ Tát, được tất cả chư Phật mười phương, quá khứ, vị lai, hiện tại, khen ngợi tán thán. Là từ sức đại oai đức của tất cả chư Phật chảy ra, nhập vào trong cảnh giới của tất cả chư Phật. Thể tánh là chân thật, không có hư vọng. Mắt pháp thanh tịnh hiện chứng, mắt trí huệ thấy khắp, thành tựu mắt của Phật, làm đèn sáng cho thế gian. Tu hành mắt trí huệ, biết được cảnh giới, rộng vì tất cả chúng sinh khai thị pháp môn vi diệu không thể nghĩ bàn.

Thành Bồ-đề tâm, thú thắng trượng phu, ư chư cảnh giới vô hữu chướng ngại. Nhập trí chủng tánh xuất sanh chư trí, ly thế sanh pháp nhi hiện thọ sanh, thần thông biến hóa, phương tiện điều phục. Như thị nhất thiết vô phi thiện xảo.
Thành tựu tâm bồ đề, hướng về trượng phu thù thắng. Nơi các cảnh giới, chẳng có chướng ngại. Vào trí huệ chủng tánh, sinh ra các trí huệ. Lìa sinh pháp thế gian, mà hiện thọ sinh. Thần thông biến hoá, điều phục tất cả như vậy, đều là phương tiện khéo léo.
Giảng: Bồ Tát thành tựu tâm bồ đề, hướng về đại trượng phu thù thắng. Đối với tất cả cảnh giới, chẳng có chướng ngại. Vào trí huệ chủng tánh, sinh ra nhất thiết trí huệ. Tuy nhiên lìa khỏi pháp sinh tử thế gian, nhưng vẫn còn thị hiện tướng thọ sanh tử. Dùng đủ thứ thần thông biến hoá, phương tiện để điều phục chúng sinh, tất cả như vậy đều là phương tiện khéo léo.

Công đức giải dục tất giai thanh tịnh, tối cực vi diệu cụ túc viên mãn, trí tuệ quảng đại do như hư không, thiện năng quan sát chúng Thánh cảnh giới, tín hạnh, nguyện. lực kiên cố bất động, công đức vô tận thế sở xưng thán. ư nhất thiết Phật sở quán chi tạng, Đại bồ-đề xứ nhất thiết trí hải, tập chúng diệu bảo, vi Đại trí giả, do như liên hoa tự tánh thanh tịnh, chúng sanh kiến giả giai sanh hoan hỉ, hàm đắc lợi ích. trí quang phổ chiếu, kiến vô lượng Phật. Tịnh nhất thiết pháp
Công đức thấu hiểu mong muốn, thảy đều thanh tịnh, vi diệu tối cực, đầy đủ viên mãn. Trí huệ rộng lớn như hư không. Khéo quán sát cảnh giới của các bậc Thánh. Tin hành nguyện lực, kiên cố bất động. Công đức vô tận, được thế gian khen ngợi.
Nơi tạng chỗ quán của tất cả chư Phật, nơi đại bồ đề, biển nhất thiết trí, tích tập các báu đẹp, làm bậc đại trí. Như hoa sen, tự tánh thanh tịnh. Chúng sinh thấy được, đều sinh hoan hỉ, đều được lợi ích. Trí huệ quang minh chiếu khắp, thấy vô lượng chư Phật, tịnh tất cả pháp.
Giảng: Bồ Tát đối với công đức, sự thấu hiểu, sự hy vọng, thảy đều thanh tịnh. Nói tóm lại, dù ở trong pháp nhiễm ô, cũng tu pháp thanh tịnh. Chỗ vi diệu đến chỗ tối cực nhất, lại đầy đủ lại viên mãn. Nhất thiết rí huệ rộng lớn vô biên, giống như hư không, bao la vạn hữu. Do đó : « Chân không diệu hữu, diệu hữu chân không ». Bồ Tát khéo quán sát cảnh giới của các bậc Thánh, tức cũng là cảnh giới của Phật Bồ Tát. Đầy đủ tâm tin và nguyện lực tu hành, kiên cố bất động. Do đó : « Tám gió thổi không lay ». Công đức của Bồ Tát vô cùng vô tận, được tất cả chúng sinh thế gian khen ngợi.
Đối với tất cả tạng pháp chỗ quán của tất cả chư Phật, nơi đại bồ đề, biển pháp nhất thiết trí, tích tập tất cả căn lành báu đẹp, làm bậc đại trí. Giống như hoa sen lớn, tự tánh của nó thanh tịnh. Nếu chúng sinh thấy được hoa sen thanh tịnh, đều sinh tâm hoan hỉ, đều đắc được lợi ích đáng được. Trí huệ quang minh chiếu khắp tất cả chúng sinh, thấy được mười phương vô lượng chư Phật, thanh tịnh tất cả các pháp.

Sở hạnh tịch tĩnh, ư chư Phật Pháp cứu cánh vô ngại. Hằng dĩ phương tiện trụ Phật Bồ-đề công đức hạnh trung nhi đắc xuất sanh, cụ Bồ Tát trí, vi Bồ Tát thủ, nhất thiết chư Phật cọng sở hộ niệm. Đắc Phật uy thần, thành Phật Pháp thân, niệm lực nan tư, ư cảnh nhất duyên nhi vô sở duyên, kỳ hành quảng đại vô tướng vô ngại, đẳng vu Pháp giới vô lượng vô biên. Sở chứng Bồ-đề do như hư không, vô hữu biên tế, vô sở phược trứ.
Tu hành tịch tĩnh, nơi các Phật pháp, rốt ráo vô ngại. Luôn dùng phương tiện, trụ Phật bồ đề, trong công đức tu hành, được sinh ra. Đủ trí huệ của Bồ Tát, làm Bồ Tát thượng thủ, được tất cả chư Phật cùng hộ niệm, được oai thần của Phật, thành tựu pháp thân Phật, niệm lực khó nghĩ bàn, nơi cảnh một duyên mà vô sở duyên. Bồ Tát tu hành rộng lớn, vô tướng vô ngại, đồng với pháp giới, vô lượng vô biên. Bồ đề chứng được như hư không, chẳng có bờ mé, không có ràng buộc chấp trước.
Giảng: Bồ Tát tu hành đều là pháp tịch tĩnh, đối với tất cả Phật pháp, được rốt ráo không chướng ngại. Thường dùng phương tiện khéo léo, trụ nơi bồ đề giác đạo của Phật. Hết thảy công đức của Phật, ở trong sự tu hành, được sinh ra diệu quả bồ đề. Nếu đầy đủ trí huệ viên mãn của Bồ Tát, thì làm Bồ Tát thượng thủ, được tất cả chư Phật mười phương cùng đến hộ niệm, được đại oai thần lực của Phật, thành tựu pháp thân của Phật, đầy khắp tất cả mọi nơi. Niệm lực của Bồ Tát là khó nghĩ bàn, nơi mỗi một thứ cảnh giới và mỗi một thứ duyên, chẳng phan duyên. Bồ Tát tu hành rộng lớn vô biên, chẳng có tướng, cũng chẳng có chướng ngại, đồng với pháp giới, vô lượng vô biên. Bồ đề chứng được như hư không, chẳng có bờ mé, không có ràng buộc chấp trước.

Ư chư thế gian phổ tác nhiêu ích, nhất thiết trí hải thiện căn sở lưu, tất năng thông đạt vô lượng cảnh giới. Dĩ thiện thành tựu thanh tịnh thí Pháp, trụ Bồ Tát tâm, tịnh Bồ Tát chủng, năng tùy thuận sanh chư Phật Bồ-đề, ư chư Phật Pháp giai đắc thiện xảo, cụ vi diệu hạnh, thành kiên cố lực.
Trong các thế gian, khắp làm lợi ích. Từ biển nhất thiết trí căn lành chảy ra, đều thông đạt vô lượng cảnh giới, đã khéo thành tựu pháp bố thí thanh tịnh, trụ tâm Bồ Tát, tịnh hạt giống Bồ Tát, tuỳ thuận sinh ra bồ đề của chư Phật. Nơi các Phật pháp đều được khéo léo, đủ hạnh vi diệu, thành tựu sức kiên cố.
Giảng: Bồ Tát đối với tất cả chúng sinh thế gian, khắp làm lợi ích. Đó là do biển nhất thiết trí sở tu căn lành chảy ra, hoàn toàn viên mãn vô ngại, thông đạt vô lượng cảnh giới của chư Phật, đã khéo thành tựu pháp môn bố thí thanh tịnh, thường trụ tâm từ bi của Bồ Tát, thanh tịnh hạt giống Bồ Tát, hay tuỳ thuận tu hành, sinh ra bồ đề giác đạo của chư Phật. Đối với tất cả đều đắc được phương tiện khéo léo, đầy đủ hạnh môn vi diệu, thành tựu sức kiên cố.

Nhất thiết chư Phật tự tại uy thần, chúng sanh nan văn, Bồ Tát tất tri nhập bất nhị môn trụ vô tướng Pháp. Tuy phục vĩnh xả nhất thiết chư tướng, nhi năng quảng thuyết chủng chủng chư Pháp, tùy chư chúng sanh tâm lạc dục giải, tất sử điều phục, hàm lệnh hoan hỉ.
Tự tại oai thần của tất cả chư Phật, chúng sinh khó nghe được, Bồ Tát đều biết, vào môn không hai. Trụ pháp vô tướng, nhưng lại vĩnh viễn xả bỏ tất cả các tướng, mà rộng nói đủ thứ các pháp. Tuỳ thuận tâm ưa muốn hiểu biết của các chúng sinh, đều khiến cho họ điều phục, đều khiến cho họ hoan hỉ.
Giảng: Tự tại oai thần của tất cả chư Phật mười phương ba đời, chúng sinh khó nghe khó biết, chỉ có Đẳng giác Bồ Tát mới biết được cảnh giới này, mà vào pháp môn không hai, trụ quả vị pháp vô tướng. Bồ Tát là tức tướng lìa tướng, do đó :
« Quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng ».
Bồ Tát lại vĩnh viễn xả bỏ tất cả các pháp, nhưng lại rộng nói đủ thứ pháp tướng của các pháp. Bồ Tát phát nguyện tuỳ thuận chúng sinh, khiến cho trong tâm tất cả chúng sinh hoan hỉ những gì, thì Bồ Tát vì chúng sinh nói pháp đó, khiến cho chúng sinh cang cường, đều bị điều phục. Khiến cho chúng sinh đều đại hoan hỉ.

Pháp giới vi thân vô hữu phân biệt, trí tuệ cảnh giới bất khả cùng tận, chí thường dũng mãnh, tâm hằng bình đẳng. kiến nhất thiết Phật công đức biên tế, liễu nhất thiết kiếp sái biệt thứ đệ
Bồ Tát dùng pháp giới làm thân, không có phân biệt. Trí huệ cảnh giới, không thể cùng tận. Chí thường dũng mãnh, tâm luôn bình đẳng. Thấy được bờ mé công đức của tất cả chư Phật, thấu rõ tất cả kiếp thứ lớp khác nhau.
Giảng: Bồ Tát dùng pháp giới làm thân, hư không làm dụng. Chẳng có tất cả tâm phân biệt, lìa khỏi tất cả thức, mà dùng nhất thiết trí. Cảnh giới trí huệ của Bồ Tát vô cùng vô tận. Chí nguyện của Bồ Tát thường dũng mãnh tinh tấn, chẳng thối lùi về sau. Tâm của Bồ Tát luôn bình đẳng, chẳng có sự phân biệt đó đây, nghĩa là không ta, không người, không chúng sinh, không thọ mạng, tâm bốn tướng. Bồ Tát thấy được bờ mé công đức của tất cả chư Phật tu, thấu rõ tất cả kiếp thứ lớp khác nhau, phân biệt rất rõ ràng.

Khai thị nhất thiết pháp, an trụ nhất thiết sát, nghiêm tịnh nhất thiết chư Phật quốc độ, hiển Hiện-Nhất-Thiết chánh pháp quang minh, diễn khứ, lai, kim nhất thiết Phật Pháp, thị chư Bồ-tát sở trụ chi xứ. Vi thế minh đăng, sanh chư thiện căn, vĩnh ly thế gian, thường sanh Phật sở
Bồ Tát khai thị tất cả pháp, an trụ tất cả cõi, nghiêm tịnh cõi nước của tất cả chư Phật, hiển hiện tất cả chánh pháp quang minh, diễn nói tất cả Phật pháp quá khứ, vị lai, hiện tại. Chỉ bày xứ sở của các Bồ Tát ở, làm đèn sáng cho thế gian, sinh ra các căn lành, vĩnh viễn lìa thế gian, thường sinh vào chỗ Phật.
Giảng: Bồ Tát khai thị chúng sinh tất cả pháp, an trụ tại cõi nước của tất cả chư Phật, trang nghiêm thanh tịnh cõi nước của tất cả chư Phật, hiển hiện tất cả chánh pháp quang minh, diễn nói tất cả Phật pháp ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại. Chỉ bày xứ sở của tất cả Bồ Tát ở, làm đèn sáng cho thế gian, sinh ra tất cả các căn lành, vĩnh viễn lìa khỏi tất cả pháp ô nhiễm, thường sinh vào đạo tràng của Phật, gần gũi Phật, thừa sự Phật.

Đắc Phật trí tuệ minh liễu đệ nhất. Nhất thiết chư Phật giai cộng nhiếp thọ, dĩ nhập vị lai chư Phật chi số, tùng chư thiện hữu nhi đắc xuất sanh, sở hữu chí cầu giai vô bất quả.
Bồ Tát đắc được trí huệ sáng tỏ đệ nhất của Phật, được tất cả chư Phật đều cùng nhiếp thọ, đã vào số của chư Phật vị lai. Từ các bạn lành mà được sinh ra, hết thảy chí cầu, đều thành tựu quả.
Giảng: Bồ Tát đắc được hết thảy tất cả trí huệ, thấu rõ đạo lý đệ nhất nghĩa đế của Phật, tức cũng là trung đạo. Trung đạo tức là chẳng rơi vào bên có, chẳng rơi vào bên không, hai bên. Được tất cả chư Phật mười phương ba đời, đều cùng đến nhiếp thọ. Đã chứng nhập vào số của chư Phật vị lai. Là từ các bạn lành mà được sinh ra, hết thảy chí nguyện, đều được viên mãn thành tựu quả.

Cụ đại uy đức, trụ tăng thượng ý, tùy sở thính văn hàm năng thiện thuyết, diệc vi khai thị văn Pháp thiện căn. Trụ thật tế luân, ư nhất thiết Pháp tâm vô chướng ngại. Bất xả chư hạnh, ly chư phân biệt
Bồ Tát đầy đủ đại oai đức, trụ tại ý tăng thượng, theo chỗ nghe được, đều khéo diễn nói. Cũng vì khai thị thiện căn nghe pháp trụ thật tế luân, nơi tất cả pháp, tâm không chướng ngại, không xả bỏ các hạnh, lìa khỏi các sự phân biệt.
Giảng: Bồ Tát lại đầy đủ đại oai đức, trụ tại tâm bồ đề tăng thượng. Bất cứ ở trong đạo tràng nào, phàm là nghe được pháp của Phật nói, đều nhớ mãi không quên, tuỳ thời tuỳ lúc khéo nói diệu pháp, giáo hoá chúng sinh. Bồ Tát khai thị chúng sinh, khiến cho chúng sinh nghe pháp mà tăng trưởng căn lành, trụ tại thật tế (chân như pháp tánh) luân. Đối với tất cả pháp, trong tâm không chướng ngại. Không xả bỏ tất cả hạnh môn của Bồ Tát tu, lìa khỏi tất cả tâm phân biệt.

Ư nhất thiết Pháp tâm vô động niệm. Đắc trí tuệ minh diệt chư si ám, tất năng minh chiếu nhất thiết Phật Pháp, bất hoại chư hữu nhi sanh kỳ trung, liễu tri nhất thiết chư hữu cảnh giới. Tùng bổn dĩ lai vô hữu động tác, thân, ngữ, ý nghiệp giai tất vô biên
Nơi tất cả pháp, tâm không động niệm. Đắc được trí huệ quang minh, diệt trừ các ngu si đen tối. Đều chiếu sáng tất cả Phật pháp, chẳng phá hoại các cõi, mà sinh trong đó. Biết rõ tất cả cảnh giới các cõi. Từ xưa đến nay, không có động tác. Thân lời ý nghiệp, thảy đều vô biên.
Giảng: Bồ Tát đối với tất cả pháp, thấu hiểu thâm sâu, cho nên tâm không có vọng niệm. Đắc được trí huệ quang minh, diệt trừ các ngu si đen tối, đều chiếu sáng thông đạt tất cả pháp của chư Phật nói, không cần phá hoại tam giới hai mươi lăm cõi, tuy nhiên ở trong tam giới các cõi, nhưng thấu rõ cảnh giới các cõi trong tam giới. Từ vô thuỷ cho đến hiện tại, không có động tác. Thân lời ý ba nghiệp, thảy đều vô lượng vô biên.

Tuy tùy thế tục diễn thuyết chủng chủng vô lượng văn tự, nhi hằng bất hoại ly văn tự Pháp. Thâm nhập Phật hải, tri nhất thiết pháp đãn hữu giả danh, ư chư cảnh giới vô hệ Vô Trước;
Tuy tuỳ thế tục, diễn nói đủ thứ vô lượng văn tự, mà luôn hoại lìa pháp văn tự. Vào sâu biển Phật, biết tất cả pháp chỉ có giả danh. Nơi các cảnh giới, không ràng buộc, không chấp trước.
Giảng: Bồ Tát tuy nhiên tuỳ thế tục của thế gian, diễn nói đủ thứ vô lượng văn tự, nhưng thường không phá hoại pháp chân đế lìa khỏi pháp văn tự. Vào sâu biển trí huệ của Phật, biết tất cả pháp chỉ có giả danh mà thôi. Đối với hết thảy tất cả cảnh giới, không ràng buộc, không chấp trước.

Liễu nhất thiết pháp không vô sở hữu, sở tu chư hạnh tùng Pháp giới sanh, do như hư không vô tướng vô hình. Thâm nhập Pháp giới tùy thuận diễn thuyết, ư nhất cảnh môn sanh nhất thiết trí,
Thấu rõ tất cả các pháp, vốn không chẳng chỗ có, tu các hạnh đều từ pháp giới sinh ra. Giống như hư không, không tướng, không hình, vào sâu pháp giới, tuỳ thuận diễn nói. Nơi một môn cảnh giới, sinh ra nhất thiết trí.
Giảng: Bồ Tát thấu rõ tất cả pháp, vốn không chẳng chỗ có, tu các hạnh đều từ pháp giới sinh ra. Giống như hư không, không tướng, cũng không hình. Vào sâu pháp giới, tuỳ thuận chúng sinh diễn nói diệu pháp. Ở trong một môn cảnh giới, bèn sinh ra nhất thiết trí.

Quán thập lực địa dĩ trí tu học, trí vi kiều lương chí Tát bà nhã, dĩ trí Tuệ-nhãn kiến pháp vô ngại, thiện nhập chư địa tri chủng chủng nghĩa, nhất nhất Pháp môn tất đắc minh liễu, sở hữu đại nguyện mị bất thành tựu.
Quán bậc Thập lực, dùng trí tu học. Trí làm kiều lương, đến Tát bà nhạ. Dùng mắt trí huệ, thấy pháp vô ngại. Khéo vào các địa, biết đủ thứ nghĩa lý. Mỗi mỗi pháp môn, đều được sáng tỏ. Hết thảy đại nguyện, thảy đều thành tựu.
Giảng: Bồ Tát quán sát địa vị của mười phương chư Phật thập lực, dùng trí huệ để tu học tất cả Phật pháp. Dùng trí làm kiều lương, đến bờ bên kia nhất thiết trí. Dùng mắt trí huệ, thấy tất cả pháp không chướng ngại. Khéo vào mười địa của Bồ Tát, biết rõ đủ thứ nghĩa lý. Hết thảy mỗi một pháp môn, hoàn toàn minh bạch thấu rõ. Đại nguyện của Bồ Tát phát ra, nguyện nguyện đều thành tựu, chẳng có một nguyện nào mà chẳng thành tựu.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ thử khai thị nhất thiết Như Lai vô sái biệt tánh, thử thị vô ngại phương tiện chi môn, thử năng xuất sanh Bồ Tát chúng hội, thử pháp duy thị tam muội cảnh giới, thử năng dũng tiến nhập Tát bà nhã, thử năng khai hiển chư tam muội môn, thử năng vô ngại phổ nhập chư sát, thử năng điều phục nhất thiết chúng sanh, thử năng trụ ư vô chúng sanh tế, thử năng khai thị nhất thiết Phật Pháp, thử ư cảnh giới giai vô sở đắc.
Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng nghĩa lý này, để khai thị tánh không khác biệt của tất cả Như Lai. Đây là môn phương tiện vô ngại. Đây hay sinh ra Bồ Tát chúng hội. Pháp này chỉ là cảnh giới tam muội. Đây hay dũng mãnh tinh tấn vào Tát bà nhạ. Đây hay khai hiển các môn tam muội. Đây hay vào khắp các cõi vô ngại. Đây hay điều phục tất cả chúng sinh. Đây hay trụ bờ mé không chúng sinh. Đây hay khai thị tất cả Phật pháp. Nơi cảnh giới này, đều vô sở đắc.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát dùng nghĩa lý này, để khai thị pháp tánh không khác biệt của tất cả chư Phật. Đây là môn phương tiện khéo léo không chướng ngại. Đây hay sinh ra Bồ Tát đạo tràng chúng hội. Pháp này hết thảy đều là cảnh giới tam muội. Đây hay dũng mãnh tinh tấn vào Tát bà nhạ. Đây hay khai hiển tất cả môn tam muội. Đây hay vào khắp tất cả cõi Phật không chướng ngại. Đây hay điều phục tất cả chúng sinh cang cường. Đây hay trụ bờ mé không chúng sinh. Đây hay khai thị pháp của tất cả chư Phật nói. Nơi tất cả cảnh giới này đều vô sở đắc, do đó : « Vô trí diệc vô đắc ».

Tuy nhất thiết thời diễn thuyết khai thị, nhi hằng viễn ly vọng tưởng phân biệt;
Tuy tất cả thời diễn nói khai thị, mà luôn xa lìa vọng tưởng phân biệt.
Giảng: Tuy Bồ Tát tất cả thời, diễn nói diệu pháp, khai thị chúng sinh. Song, pháp môn đó, luôn xa lìa tất cả vọng tưởng và phân biệt. Ý nghĩa câu này là « Có chẳng ngại không », vì dùng có là có ở trong không. Ý nghĩa bốn mươi câu dưới đây là nói rõ đạo lý « Không chẳng ngại có », vì không là không ở trong có. Cho nên một câu ở trước là « Hai mà chẳng hai », bốn mươi câu sau là « Chẳng hai mà hai ».

Tuy tri chư Pháp giai vô sở tác, nhi năng thị Hiện-Nhất-Thiết tác nghiệp; tuy tri chư Phật vô hữu nhị tướng, nhi năng hiển thị nhất thiết chư Phật; tuy tri vô sắc, nhi diễn thuyết chư sắc
Tuy tri thị cố, nhi diễn thuyết chư thọ; tuy tri vô tưởng, nhi diễn thuyết chư tưởng; tuy tri vô hành, nhi diễn thuyết chư hạnh; tuy tri vô thức, nhi diễn thuyết chư thức, hằng dĩ Pháp luân khai thị nhất thiết; tuy tri Pháp vô sanh, nhi thường chuyển pháp luân; tuy tri Pháp vô sái biệt, nhi thuyết chư sái biệt môn; tuy tri chư Pháp vô hữu sanh diệt, nhi thuyết nhất thiết sanh diệt chi tướng;
Tuy biết các pháp đều vô sở tác, mà hay thị hiện tất cả tác nghiệp. Tuy biết chư Phật không có hai tướng, mà hay hiển bày tất cả chư Phật. Tuy biết không sắc, mà diễn nói các sắc.
Tuy biết không thọ, mà diễn nói các thọ. Tuy biết không tưởng, mà diễn nói các tưởng. Tuy biết không hành, mà diễn nói các hành. Tuy biết không thức, mà diễn nói các thức. Luôn dùng pháp luân khai thị tất cả. Tuy biết pháp không sinh, mà thường chuyển pháp luân.
Tuy biết pháp không khác biệt, mà nói các môn khác nhau. Tuy biết các pháp không có sinh diệt, mà nói tất cả tướng sinh diệt.
Giảng: Bồ Tát tuy biết các pháp, vốn đều không tạo tác, nhưng vẫn phải thị hiện tất cả nghiệp làm ra và sở thọ quả báu.
Các pháp là gì ? Nói đơn giản tức là tất cả pháp. Nói rộng ra tức là tám vạn bốn ngàn pháp. Tám vạn bốn ngàn pháp lại chia thành trăm pháp. Trăm pháp là những pháp gì ? Đó là :
1. Sắc pháp : Có 11 thứ pháp.
2. Tâm pháp : Có 8 thứ pháp.
3. Tâm sở pháp : Có 51 thứ pháp.
4. Bất tương ưng pháp : Có 24 thứ pháp.
5. Vô vi pháp : Có 6 thứ pháp.
Tổng cộng lại có 100 pháp. Đây là 100 pháp của đại thừa, tiểu thừa chỉ có 75 pháp. Nếu muốn thấu hiểu tường tận, thì hãy tham khảo quyển Bách Pháp Minh Môn Luận.
Bồ Tát tuy biết tất cả chư Phật không có hai tướng, chỉ có một tướng, mà vẫn phải thị hiện mười phương ba đời tất cả chư Phật đủ thứ tướng. Tại sao ? Vì muốn độ chúng sinh thoát khỏi ba cõi, chấm dứt sinh tử, cho nên thị hiện pháp môn phương tiện.
Bồ Tát tuy biết không có sắc, là không, mà vẫn phải diễn nói pháp môn tất cả các sắc. Các pháp vô ngã, năm uẩn đều không, đạo lý này Bồ Tát đều thấu hiểu. Vì độ chúng sinh, cho nên trong không nói có, trong có nói không, dùng pháp phương tiện khéo léo, để giáo hoá chúng sinh, khiến cho họ phát bồ đề tâm, cầu vô thượng đạo.
Bồ Tát tuy biết thọ là không, mà vẫn phải diễn nói pháp môn tất cả các thọ.
Bồ Tát tuy biết tưởng là không, mà vẫn phải diễn nói pháp môn tất cả các tưởng.
Bồ Tát tuy biết hành là không, mà vẫn phải diễn nói pháp môn tất cả các hành.
Bồ Tát tuy biết thức là không, mà vẫn phải diễn nói pháp môn tất cả các thức.
Bồ Tát luôn thường chuyển đại pháp luân, để khai thị tất cả chúng sinh, để giáo hoá tất cả chúng sinh, khiến cho họ bỏ mê về giác, chứng được giải thoát.
Bồ Tát tuy biết « Các pháp tùng bản lai, thường tự tịch diệt tướng » không thể dùng lời nói, mà vẫn ở trong pháp không sinh, thường chuyển pháp luân, để vì tất cả chúng sinh thuyết pháp.
Bồ Tát tuy biết tất cả pháp, không có sự khác biệt, mà vẫn phải diễn nói tất cả các môn khác nhau.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, không có sinh diệt, mà vẫn phải diễn nói tất cả tướng có sinh diệt.

Tuy tri chư Pháp vô thô vô tế, nhi thuyết chư Pháp thô tế chi tướng; tuy tri chư Pháp vô thượng, trung, hạ, nhi năng tuyên thuyết tối thượng chi Pháp; tuy tri chư Pháp bất khả ngôn thuyết, nhi năng diễn thuyết thanh tịnh ngôn từ; tuy tri chư Pháp vô nội vô ngoại, nhi thuyết nhất thiết nội ngoại chư Pháp; tuy tri chư Pháp bất khả liễu tri, nhi thuyết chủng chủng trí tuệ quan sát; tuy tri chư Pháp vô hữu chân thật, nhi thuyết xuất ly chân thật chi đạo; tuy tri chư Pháp tất cánh vô tận, nhi năng diễn thuyết tận chư hữu lậu
Tuy tri chư Pháp vô vi vô tránh, nhiên diệc bất vô tự tha sái biệt; tuy tri chư Pháp tất cánh vô sư, nhi thường tôn kính nhất thiết sư trưởng; tuy tri chư Pháp bất do tha ngộ, nhi thường tôn kính chư thiện tri thức;
Tuy biết các pháp không thô, không tế, mà nói tướng các pháp thô tế. Tuy biết các pháp không có thượng trung hạ, mà hay diễn nói pháp tối thượng. Tuy biết các pháp không thể nói ra, mà hay diễn nói lời lẽ thanh tịnh.
Tuy biết các pháp không trong, không ngoài, mà nói tất cả các pháp trong ngoài. Tuy biết các pháp không thể biết rõ, mà nói đủ thứ trí huệ quán sát. Tuy biết các pháp không có chân thật, mà nói ra đạo lìa chân thật.
Tuy biết các pháp rốt ráo vô tận, mà hay diễn nói hết các hữu lậu. Tuy biết các pháp không trái, không tranh, nhưng cũng chẳng không tự tha khác biệt.
Tuy biết các pháp rốt ráo vô sư, mà thường tôn kính tất cả sư trưởng. Tuy biết các pháp chẳng do người khác mà ngộ, nhưng thường tôn kính các thiện tri thức.
Giảng: Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có tướng thô, cũng chẳng có tướng tế, mà vẫn phải diễn nói tướng pháp thô và pháp tế.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có phân biệt thượng trung hạ, đều là bình đẳng. Trong Kinh Kim Cang có nói :
« Là pháp bình đẳng, chẳng có cao thấp ».

Mà vẫn phải ở tại pháp bình đẳng diễn nói pháp môn tối thượng.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, không thể dùng lời nói, do đó : « Lìa lời nói tướng, lìa tướng văn tự, lìa tâm duyên tướng », mà hay diễn nói lời lẽ thanh tịnh.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có bên trong, cũng chẳng có bên ngoài, mà vẫn phải diễn nói tất cả các pháp trong ngoài.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, là không thể biết rõ, mà vẫn phải diễn nói đủ thứ trí huệ, để quán sát tất cả pháp.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có tánh chân thật, vốn là hư vọng, mà nói ra pháp lìa khỏi hư vọng không thật, đắc được đạo chân thật.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, là rốt ráo vô tận, mà vẫn phải diễn nói hết tất cả pháp hữu lậu. Lại minh bạch pháp vô lậu. Pháp hữu lậu tức là pháp có tướng, tức là pháp hữu vi. Pháp vô lậu tức là pháp vô tướng, tức là pháp vô vi.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, là không trái, không tranh, tức cũng là giữa pháp và pháp, chẳng có trái nhau, chẳng tranh luận với nhau, nhưng pháp cũng chẳng có sự phân biệt có tự, cũng chẳng có tha.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, đến cực điểm rồi, không thầy mà tự thông, nhưng luôn luôn tôn kính tất cả sư trưởng.
Tại sao không có người dạy mà tự mình thông đạt ? Vì đến được cảnh giới :
« Quét tất cả pháp, lìa tất cả tướng ».
Do đó :
« Lìa tướng lời nói,
Lìa tướng văn tự,
Lìa tướng tâm duyên ».
Nhưng Bồ Tát giáo hoá chúng sinh, dạy họ phải tôn trọng sư phụ, hiếu kính trưởng bối.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, là tự giác tự ngộ, chẳng phải do người khác dạy mà khai ngộ, nhưng vẫn phải tôn kính tất cả thiện tri thức, vẫn phải cúng dường thiện tri thức.
Làm thế nào để tự giác tự ngộ ? Tức là y pháp tu hành, tu đến chỗ rốt ráo, thì vẫn cần chính mình đi giác ngộ. Pháp này tuy nhiên là tự ngộ, nhưng đây là đốn ngộ. Vì thuở xưa, kết quả do thiện tri thức giáo hoá từng chút từng chút. Do đó :
« Lý là đốn ngộ, sự là tiệm tu ».
Tuy nhiên có căn lành, vẫn phải tu hành, mới được khai ngộ.

Tuy tri Pháp vô chuyển, nhi chuyển pháp luân; tuy tri Pháp vô khởi, nhi thị chư nhân duyên; tuy tri chư Pháp vô hữu tiền tế, nhi quảng thuyết quá khứ; tuy tri chư Pháp vô hữu hậu tế, nhi quảng thuyết vị lai; tuy tri chư Pháp vô hữu trung tế, nhi quảng thuyết hiện tại; tuy tri chư Pháp vô hữu tác giả, nhi thuyết chư tác nghiệp; tuy tri chư Pháp vô hữu nhân duyên, nhi thuyết chư tập nhân; tuy tri chư Pháp vô hữu đẳng bỉ, nhi thuyết bình đẳng, bất bình đẳng đạo; tuy tri chư Pháp vô hữu ngôn thuyết, nhi quyết định thuyết tam thế chi Pháp. Tuy tri chư Pháp vô hữu sở y, nhi thuyết y thiện Pháp nhi đắc xuất ly;
Tuy biết pháp không chuyển, mà chuyển pháp luân. Tuy biết pháp không khởi, mà thị hiện các nhân duyên. Tuy biết các pháp không có tiền tế, mà rộng nói quá khứ. Tuy biết các pháp không có hậu tế, mà rộng nói vị lai. Tuy biết các pháp không có trung tế, mà rộng nói hiện tại. Tuy biết các pháp không có tác giả, mà nói các nghiệp làm.
Tuy biết các pháp không có nhân duyên, mà nói các nhân tập. Tuy biết các pháp không có bình đẳng so sánh, mà nói đạo bình đẳng, không bình đẳng. Tuy biết các pháp không có lời nói, mà quyết định nói pháp ba đời. Tuy biết các pháp không có chỗ nương, mà nói nương pháp lành để được thoát khỏi.
Giảng: Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp là vắng lặng, chẳng có pháp có thể chuyển, mà vẫn phải thường chuyển đại pháp luân, để giáo hoá chúng sinh.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có sinh khởi, mà vẫn phải thị hiện nhân duyên của tất cả pháp. Do đó :
« Các pháp do duyên khởi,
Các pháp do duyên diệt ».
Pháp duyên sinh, là chẳng có tự tánh, do đó :
« Nhân duyên sinh ra pháp
Ta nói tức là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng gọi nghĩa trung đạo ».
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có tiền tế, mà rộng nói tất cả pháp quá khứ.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có hậu tế, mà rộng nói tất cả pháp vị lai.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp, chẳng có trung tế, mà rộng nói tất cả pháp hiện tại.
Tại bổn thể pháp mà nói, là chẳng có phân biệt quá khứ, hiện tại, vị lai, nhưng Bồ Tát phân biệt ra để nói pháp ba đời. Tại sao phải phiền phức như vậy ? Vì Bồ Tát thích làm việc cực khổ, lại có thể nói Bồ Tát thích quản nhàn sự, cho nên cam tâm tình nguyện đi hành Bồ Tát đạo, vì lợi ích tất cả chúng sinh, mà chịu hy sinh lợi ích của chính mình. Chịu khổ chịu cực đi giáo hoá chúng sinh, thọ hết sự cực khổ, mà không một lời oán trách. Đều hy vọng chúng sinh cải tà theo chánh, bỏ tối về sáng. Cho nên chỗ làm của Bồ Tát và chỗ làm của phàm phu đều hoàn toàn khác nhau. Tư tưởng của phàm phu là ích kỷ lợi mình. Nếu việc đối với mình có lợi ích, thì tìm cách đi tranh giành, bằng không, thì tuyệt đối không đi làm. Tư tưởng của Bồ Tát thì ngược lại, chuyên nghĩ đến chúng sinh, chẳng nghĩ đến mình, cho nên tinh thần « vô duyên đại từ, đồng thể đại bi ».
Các vị hãy quán sát nhân loại trên thế giới này, người nào vì mọi người mưu hạnh phúc ? Vốn chẳng có, hoàn toàn đều vì mình : Tôi phải mặc quần áo đẹp, tôi phải ăn thức ăn ngon, tôi phải ở nhà sang trọng, tôi phải chạy xe mới .v.v…Tóm lại, tất cả đều vì mình mà nghĩ đến sự hưởng thụ. Ai Ai cũng có tư tưởng như thế, thì thế giới làm sao mà thái bình!
Mục đích học Phật là thay đổi tâm ích kỷ, thành tâm đại công vô tư. Việc việc đều vì người, mà chẳng vì mình. Hy sinh sự khoái lạc của chính mình, đi trợ giúp người khác khốn khổ, do đó : « Từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa », đây là tông chỉ của Phật giáo.
Phật giáo là giáo cứu thế độ nhân, ban cho chúng sinh sự khoái lạc, cứu khổ chúng sinh. Chúng sinh có sự đau khổ, thì tận sức đi cứu họ thoát khỏi biển khổ, thậm chí vào chỗ dầu sôi lửa bỏng, cũng không từ nan, đây là trách nhiệm của người Phật tử. Trước hết bắt đầu từ chính mình, sau đó mới lan rộng tới quần chúng, ai ai cũng như thế, thì thế giới sẽ hoà bình, an cư lạc nghiệp.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp không có tác giả, mà vẫn phải nói tất cả tác nghiệp, tức cũng là luật nhân quả, do đó : « Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu »; trồng nghiệp lành, thì thọ báo lành; trồng nghiệp ác, thì thọ báo ác.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp không có nhân duyên, mà vẫn phải nói đạo lý tập nhân của tất cả các pháp.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp không có bình đẳng so sánh, mà vẫn phải nói đạo lý bình đẳng và không bình đẳng.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp không có lời nói, do đó : « Lời nói đã bặc, tâm hành đã diệt », mà vẫn phải quyết định nói pháp ba đời.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp không có chỗ nương, mà vẫn phải nói nương tựa pháp lành, để được thoát khỏi tam giới hai mươi lăm cõi.

Tuy tri Pháp vô thân, nhi quảng thuyết Pháp thân; tuy tri tam thế chư Phật vô biên, nhi năng diễn thuyết duy hữu nhất Phật; tuy tri Pháp vô sắc, nhi hiện chủng chủng sắc; tuy tri Pháp vô kiến, nhi quảng thuyết chư kiến; tuy tri Pháp vô tướng, nhi thuyết chủng chủng tướng; tuy tri chư Pháp vô hữu cảnh giới, nhi quảng tuyên thuyết trí tuệ cảnh giới; tuy tri chư Pháp vô hữu sái biệt, nhi thuyết hành quả chủng chủng sái biệt; tuy tri chư Pháp vô hữu xuất ly, nhi thuyết thanh tịnh chư xuất ly hạnh; tuy tri chư pháp bản lai thường trụ, nhi thuyết nhất thiết chư lưu chuyển Pháp; tuy tri chư Pháp vô hữu chiếu minh, nhi hằng quảng thuyết chiếu minh chi Pháp.
Tuy biết pháp không thân, mà rộng nói pháp thân. Tuy biết ba đời chư Phật vô biên, mà hay diễn nói chỉ có một vị Phật. Tuy biết pháp không sắc, mà hiện đủ thứ sắc. Tuy biết pháp vô kiến, mà diễn nói các kiến. Tuy biết pháp vô tướng, mà nói đủ thứ tướng. Tuy biết các pháp không có cảnh giới, mà rộng diễn nói cảnh giới trí huệ.
Tuy biết các pháp không có khác biệt, mà nói hành quả đủ thứ sự khác biệt. Tuy biết các pháp không có xuất ly, mà nói các hạnh thanh tịnh xuất ly. Tuy biết các pháp vốn thường trụ, mà nói tất cả các dòng chuyển pháp. Tuy biết các pháp không có chiếu sáng, mà luôn rộng nói pháp chiếu sáng.
Giảng: Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp không thân, mà vẫn phải rộng nói lý thể của pháp thân.
Bồ Tát tuy biết ba đời chư Phật vô biên không bờ mé, mà vẫn hay diễn nói chỉ có một vị Phật, tức là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp không hình không tướng, không sắc, mà vẫn phải thị hiện đủ thứ sắc tướng.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp vô kiến, mà vẫn phải rộng diễn nói đạo lý các kiến.
Bồ Tát tuy biết tất cả các pháp vô tướng, mà vẫn phải rộng nói đủ thứ tướng.
Bồ Tát tuy biết tất cả các các pháp không có cảnh giới, mà vẫn phải rộng diễn nói cảnh giới nhất thiết trí huệ.
Bồ Tát tuy biết tất cả các các pháp không có phân biệt, mà vẫn phải nói quả báo tu hành sở đắc, có đủ thứ sự phân biệt. Do đó :
« Thiện có thiện quả, ác có ác quả;
Nếu không có báo, tức thời chưa đến ».
Người học Phật, phải tin chân lý nhân quả báo ứng.
Bồ Tát tuy biết tất cả các các pháp không có xuất ly. Vì bổn thể của các pháp là không sinh, không diệt, không dơ, không sạch, không tăng, không giảm, mà Bồ Tát vẫn phải nói làm thế nào tu hạnh thanh tịnh để thoát khỏi ba cõi.
Bồ Tát tuy biết tất cả các các pháp vốn thường trụ, không thay đổi, mà vẫn phải nói pháp tất cả các dòng lưu chuyển biến hoá.
Bồ Tát tuy biết tất cả các các pháp không có chiếu sáng, mà luôn luôn rộng nói pháp trí huệ quang minh chiếu khắp.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát nhập như thị đại uy đức tam muội trí luân, tức năng chứng đắc nhất thiết Phật Pháp, tức năng thú nhập nhất thiết Phật Pháp, tức năng thành tựu, tức năng viên mãn, tức năng tích tập, tức năng thanh tịnh, tức năng an trụ, tức năng liễu đạt, dữ nhất thiết pháp tự tánh tướng ứng, nhi thử Bồ-Tát Ma-ha-tát bất tác thị niệm: Hữu nhược can chư Bồ-tát, nhược can Bồ Tát Pháp, nhược can Bồ Tát cứu cánh, nhược can huyễn cứu cánh, nhược can hóa cứu cánh, nhược can thần thông thành tựu, nhược can trí thành tựu, nhược can tư tánh, nhược can chứng nhập, nhược can thú hướng, nhược can cảnh giới.
Phật tử ! Đại Bồ Tát nhập vào tam muội trí luân đại oai đức như vậy : Liền chứng được tất cả Phật pháp. Liền nhập vào tất cả Phật pháp.
Liền thành tựu, liền viên mãn, liền tích tập, liền thanh tịnh, liền an trụ, liền thấu đạt, cùng tất cả pháp tự tánh tương ưng, mà đại Bồ Tát đó chẳng nghĩ như vầy : Có bao nhiêu Bồ Tát, bao nhiêu Bồ Tát pháp, bao nhiêu Bồ Tát rốt ráo, bao nhiêu huyễn rốt ráo, bao nhiêu hoá rốt ráo, bao nhiêu thần thông thành tựu, bao nhiêu trí thành tựu, bao nhiêu tư duy, bao nhiêu chứng nhập, bao nhiêu thú hướng, bao nhiêu cảnh giới ?
Giảng: Bồ Tát Phổ Hiền lại gọi một tiếng các vị Phật tử ! Vị đại Bồ Tát đó tu hành Bồ Tát đạo, tích tập đủ thứ căn lành, viên mãn lục độ vạn hạnh, Ngài nhập vào được tam muội trí luân đại oai đức như vậy : Liền chứng được pháp của tất cả chư Phật nói, liền nhập vào được pháp của tất cả chư Phật nói, liền thành tựu pháp của tất cả chư Phật nói, liền viên mãn pháp của tất cả chư Phật nói, liền tích tập căn lành của tất cả chư Phật Bồ Tát tích tập, liền thanh tịnh pháp thân của tất cả chư Phật Bồ Tát, liền an trụ quả vị của tất cả chư Phật Bồ Tát an trụ, liền thấu đạt nghĩa lý của tất cả chư Phật Bồ Tát đã nói, cùng với tự tánh của tất cả pháp tương ưng.
Vị đại Bồ Tát đó chẳng nghĩ như vầy : Có bao nhiêu Bồ Tát ? Có bao nhiêu Bồ Tát pháp ? Có bao nhiêu Bồ Tát rốt ráo ? Có bao nhiêu huyễn vọng rốt ráo ? Có bao nhiêu biến hoá rốt ráo ? Có bao nhiêu thần thông thành tựu ? Có bao nhiêu trí thành tựu ? Có bao nhiêu tam muội tư duy ? Có bao nhiêu trí huệ chứng nhập ? Có bao nhiêu thú hướng về bồ đề đạo ? Có bao nhiêu cảnh giới khai ngộ ? Bồ Tát không khởi những vọng tưởng như thế.

Hà dĩ cố? Bồ Tát tam muội, như thị thể tánh, như thị vô biên, như thị thù thắng cố. Thử tam muội chủng chủng cảnh giới, chủng chủng uy lực, chủng chủng thâm nhập,
Tại sao ? Vì Bồ Tát tam muội thể tánh như vậy, vô biên như vậy, thù thắng như vậy. Tam muội này đủ thứ cảnh giới, đủ thứ oai lực, đủ thứ thâm nhập.
Giảng: Tại sao Bồ Tát không khởi vọng tưởng ? Vì Bồ Tát chứng được tam muội, lý thể là như vậy, tức là vô biên như vậy, là thù thắng như vậy. Cho nên, không cần khởi tất cả vọng tưởng. Vì tam muội này, có đủ thứ cảnh giới, đủ thứ oai lực, đủ thứ thâm nhập, cho nên chứng được hai mươi tám thứ pháp môn dưới đây.

Sở vị: nhập bất khả thuyết trí môn, nhập ly phân biệt chư trang nghiêm, nhập vô biên thù thắng ba la mật, nhập vô số Thiền định, nhập bách thiên ức na-do-tha bất khả thuyết quảng đại trí, nhập kiến vô biên Phật thắng diệu tạng, nhập ư cảnh giới bất hưu tức, nhập thanh tịnh tín giải trợ đạo Pháp, nhập chư căn mãnh lợi đại thần thông, nhập ư cảnh giới tâm vô ngại,
Đó là : Vào môn trí huệ bất khả thuyết. Vào các sự trang nghiêm lìa phân biệt. Vào vô biên thù thắng Ba la mật. Vào vô số thiền định. Vào trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết trí rộng lớn. Vào thắng diệu tạng thấy vô biên Phật. Vào nơi cảnh giới không ngừng nghỉ. Vào pháp trợ đạo thanh tịnh tin hiểu. Vào các căn mãnh lợi đại thần thông. Vào nơi cảnh giới tâm vô ngại.
Giảng: Đó là :
1. Vào môn trí huệ nhiều bất khả thuyết.
2. Vào môn tất cả sự trang nghiêm lìa khỏi sự phân biệt.
3. Vào môn Ba la mật vô biên thù thắng.
4. Vào vô số vô lượng môn thiền định.
5. Vào trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết môn trí huệ rộng lớn.
6. Vào môn thắng diệu tạng thấy vô biên Phật.
7. Vào môn cảnh giới không ngừng nghỉ.
8. Vào môn pháp trợ đạo thanh tịnh tin hiểu.
9. Vào môn các căn mãnh lợi đại thần thông.
10. Vào môn cảnh giới tâm vô ngại.

Nhập kiến nhất thiết Phật bình đẳng nhãn, nhập tích tập Phổ Hiền thắng chí hạnh, nhập trụ Na-la-diên diệu trí thân, nhập thuyết Như Lai trí tuệ hải, nhập khởi vô lượng chủng tự tại thần biến, nhập sanh nhất thiết Phật vô tận trí môn, nhập trụ nhất thiết Phật hiện tiền cảnh giới, nhập tịnh Phổ Hiền Bồ Tát tự tại trí, nhập khai thị vô bỉ Phổ môn trí, nhập phổ tri Pháp giới nhất thiết vi tế cảnh giới
Nhập vào mắt thấy tất cả chư Phật bình đẳng. Vào tích tập thắng chí hạnh của Phổ Hiền. Vào trụ trí thân na la diên. Vào nói biển trí huệ của Như Lai. Vào khởi vô lượng thứ tự tại thần biến. Vào môn sinh ra vô tận trí của tất cả chư Phật. Vào cảnh giới hiện tiền của tất cả chư Phật. Vào tịnh tự tại trí của Bồ Tát Phổ Hiền. Vào trí phổ môn khai thị vô tỉ. Vào tất cả cảnh giới vi tế biết khắp pháp giới.
Giảng:
11. Bồ Tát có thể nhập vào môn mắt thấy tất cả chư Phật bình đẳng.
12. Vào môn tích tập hết thảy tất cả thù thắng chí hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền.
13. Vào môn trụ trí thân na la diên (kiên cố).
14. Vào môn nói biển trí huệ của Phật.
15. Vào môn khởi vô lượng thứ tự tại thần biến.
16. Vào môn sinh ra vô tận trí của tất cả chư Phật.
17. Vào môn cảnh giới hiện tiền của tất cả chư Phật.
18. Vào môn thanh tịnh tự tại trí huệ của Bồ Tát Phổ Hiền.
19. Vào môn trí huệ phổ môn khai thị vô tỉ.
20. Vào môn tất cả cảnh giới vi tế biết khắp pháp giới.

Nhập phổ hiện Pháp giới nhất thiết vi tế cảnh giới, nhập nhất thiết thù thắng trí quang minh, nhập nhất thiết tự tại biên tế, nhập nhất thiết biện tài Pháp môn tế, nhập biến Pháp giới trí tuệ thân, nhập thành tựu nhất thiết xứ biến hành đạo, nhập thiện trụ nhất thiết sái biệt tam muội, nhập tri nhất thiết chư Phật tâm.
Vào khắp hiện pháp giới tất cả cảnh giới vi tế. Vào tất cả trí huệ quang minh thù thắng. Vào tất cả tự tại biên tế. Vào tất cả biện tài bờ mé pháp môn. Vào khắp pháp giới trí huệ thân. Vào thành tựu tất cả chỗ hành đạo khắp. Vào tam muội khéo trụ tất cả sự khác biệt. Vào tâm biết tất cả chư Phật.
Giảng:
21. Bồ Tát vào môn khắp hiện pháp giới tất cả cảnh giới vi tế.
22. Vào môn tất cả trí huệ quang minh thù thắng.
23. Vào môn tất cả tự tại biên tế.
24. Vào môn tất cả biện tài bờ mé pháp môn.
25. Vào môn đầy khắp pháp giới trí huệ thân.
26. Vào môn thành tựu tất cả chỗ hành đạo khắp.
27. Vào tam muội khéo trụ tất cả tam muội khác biệt.
28. Vào tâm biết tất cả chư Phật.

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ Phổ Hiền hạnh, niệm niệm nhập bách ức bất khả thuyết tam muội, nhiên bất kiến Phổ Hiền Bồ Tát tam muội cập Phật cảnh giới trang nghiêm tiền tế. Hà dĩ cố?
Phật tử ! Đại Bồ Tát này trụ hạnh Phổ Hiền, niệm niệm vào trăm ức bất khả thuyết tam muội, mà chẳng thấy tam muội Bồ Tát Phổ Hiền, và cảnh giới trang nghiêm tiền tế của Phật. Tại sao ?
Giảng: Các vị Phật tử ! Vị đại Bồ Tát này, tuy nhiên trụ ở trong hạnh Bồ Tát Phổ Hiền, vẫn có thể ở trong niệm niệm, vào trăm ức bất khả thuyết môn tam muội, mà vẫn chẳng thấy tam muội của Bồ Tát Phổ Hiền, và cảnh giới trang nghiêm tiền tế của Phật. Đây là nguyên nhân gì ?

Tri nhất thiết pháp cứu cánh vô tận cố, tri nhất thiết Phật sát vô biên cố, tri nhất thiết chúng sanh giới bất tư nghị cố, tri tiền tế vô thủy cố, tri vị lai vô cùng cố, tri hiện tại tận hư không biến Pháp giới vô biên cố, tri nhất thiết chư Phật cảnh giới bất khả tư nghị cố, tri nhất thiết Bồ Tát hạnh vô số cố, tri nhất thiết chư Phật biện tài sở thuyết cảnh giới bất khả thuyết vô biên cố, tri nhất thiết huyễn tâm sở duyên pháp vô lượng cố.
Vì biết tất cả pháp rốt ráo vô tận. Vì biết tất cả cõi Phật vô biên. Vì biết tất cả cõi chúng sinh không nghĩ bàn. Vì biết quá khứ không có bắt đầu. Vì biết vị lai không cùng tận. Vì nói hiện tại tận hư không khắp pháp giới vô biên. Vì biết cảnh giới tất cả chư Phật không thể nghĩ bàn. Vì biết tất cả Bồ Tát hạnh vô số. Vì biết cảnh giới biện tài của tất cả chư Phật nói, vô biên bất khả thuyết. Vì biết tất cả tâm huyễn duyên pháp vô lượng.
Giảng: Vì vị đại Bồ Tát này vào tam muội Vô ngại luân, cho nên biết mười thứ cảnh giới ở dưới đây. Những gì là mười thứ cảnh giới ? Đó là :
1. Vì biết tất cả pháp rốt ráo vô cùng vô tận.
2. Vì biết tất cả cõi Phật, rốt ráo vô lượng vô biên.
3. Vì biết tất cả cõi chúng sinh không nghĩ bàn.
4. Vì biết quá khứ không có bắt đầu.
5. Vì biết vị lai không cùng tận.
6. Vì nói hiện tại tận hư không khắp pháp giới vô biên.
7. Vì biết hết thảy cảnh giới tất cả chư Phật, đều không thể nghĩ bàn.
8. Vì biết Bồ Tát hạnh của tất cả Bồ Tát tu hành, đều vô số vô lượng.
9. Vì biết cảnh giới biện tài tất cả chư Phật nói, đều vô biên bất khả thuyết.
10. Vì biết tất cả tâm huyễn duyên pháp, đều là vô lượng vô biên.

Phật tử! như như ý châu, tùy hữu sở cầu nhất thiết giai đắc, cầu giả vô tận, ý giai mãn túc, nhi châu thế lực chung bất quỹ chỉ. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, nhập thử tam muội, tri tâm như huyễn, xuất sanh nhất thiết chư pháp cảnh giới, chu biến vô tận, bất quỹ bất tức.
Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu Phổ Hiền vô ngại hạnh trí, quan sát vô lượng quảng đại huyễn cảnh, do như ảnh tượng vô tăng giảm cố.
Phật tử ! Như châu như ý, tuỳ theo sở cầu, tất cả đều được. Người cầu vô tận, ý nguyện đều đầy đủ, mà thế lực của châu trọn không hết, không dừng lại. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vào tam muội này, biết tâm như huyễn, sinh ra cảnh giới tất cả các pháp, khắp cùng vô tận, không hết, không ngừng.
Tại sao ? Vì đại Bồ Tát thành tựu hạnh trí vô ngại Phổ Hiền, quán sát vô lượng cảnh huyễn rộng lớn, giống như hình bóng, không tăng giảm.
Giảng: Các vị Phật tử ! Giống như châu như ý, tuỳ theo tâm ý mong cầu, khiến cho tất cả đều đắc được sở cầu. Tuy nhiên dục vọng của người cầu vô tận, nhưng đều khiến cho họ tuỳ tâm mãn nguyện được đầy đủ. Thế lực của châu như ý, trọn không hết, cũng không thiếu bớt.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, khi vào tam muội vô ngại luân này, biết tâm do hư huyễn sinh, do hư huyễn diệt. Do tâm huyễn sinh ra cảnh giới tất cả các pháp, khắp cùng vô cùng tận, cũng không hết, cũng không ngừng.
Tại sao ? Vì đại Bồ Tát thành tựu hạnh vô ngại và trí vô ngại của Bồ Tát Phổ Hiền. Cho nên, quán sát được vô lượng cảnh huyễn rộng lớn, giống như hình bóng, là hư huyễn không thật, cũng chẳng tăng, cũng chẳng giảm.

Phật tử! thí như phàm phu, các biệt sanh tâm, dĩ sanh, hiện sanh cập dĩ đương sanh, vô hữu biên tế, vô đoạn vô tận; kỳ tâm lưu chuyển, tướng tục bất tuyệt, bất khả tư nghị. Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, nhập thử phổ huyễn môn tam muội, vô hữu biên tế, bất khả trắc lượng.
Hà dĩ cố? liễu đạt Phổ Hiền Bồ Tát phổ huyễn môn vô lượng Pháp cố.
Phật tử ! Ví như phàm phu, đều sinh tâm khác nhau, đã sinh, hiện sinh, và sẽ sinh, chẳng có bờ mé, không dứt, không tận. Tâm đó lưu chuyển, liên tục không đoạn tuyệt, không thể nghĩ bàn.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, khi vào môn tam muội phổ huyễn này, chẳng có bờ mé, không thể dò lường. Tại sao? Vì thấu đạt môn phổ huyễn pháp vô tận của Bồ Tát Phổ Hiền.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như phàm phu, đều sinh tâm vọng tưởng khác nhau, hoặc đã sinh ra, hoặc hiện tại sinh ra, hoặc tương lai sẽ sinh ra. Những vọng tâm đó, chẳng có bờ mé, không thể dứt tuyệt, không thể cùng tận. Vọng tâm đó lưu chuyển không dứt, liên tục không đoạn tuyệt, cảnh giới đó không thể nghĩ bàn.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, khi vào môn tam muội phổ huyễn này, chẳng có bờ mé, không thể dò lường. Tại sao ? Vì thấu rõ thông đạt môn phổ huyễn pháp vô tận của Bồ Tát Phổ Hiền.

Phật tử! thí như Nan-đà Bạt-nan-đà, Ma na tư long Vương cập dư Đại long hàng vũ chi thời, tích như xa trục, vô hữu biên tế; tuy như thị vũ, vân chung bất tận, thử thị chư long vô tác cảnh giới.
Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, trụ thử tam muội, nhập Phổ Hiền Bồ Tát chư tam muội môn, trí môn, Pháp môn, kiến chư Phật môn, vãng chư phương môn, tâm tự tại môn, gia trì môn, thần biến môn, Thần thông môn, huyễn hóa môn, chư Pháp như huyễn môn, bất khả thuyết bất khả thuyết chư Bồ-tát sung mãn môn, thân cận bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai chánh giác môn, nhập bất khả thuyết bất khả thuyết quảng đại huyễn võng môn, tri bất khả thuyết bất khả thuyết sái biệt quảng đại Phật sát môn, tri bất khả thuyết bất khả thuyết hữu thể tánh, vô thể tánh thế giới môn, tri bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh tưởng môn, tri bất khả thuyết bất khả thuyết thời sái biệt môn, tri bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới thành hoại môn, tri bất khả thuyết bất khả thuyết phước trụ, ngưỡng trụ chư Phật sát môn, ư nhất niệm trung giai như thật tri.
Phật tử ! Ví như Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương, Ma Na Tư Long Vương, và các đại Long Vương khác, khi mưa xuống, giọt nước như trục bánh xe, không có bờ mé. Tuy mưa như vậy, mà mây trọn không hết. Đây là cảnh giới vô tác của các Long Vương.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, trụ tam muội này, vào các môn tam muội Bồ Tát Phổ Hiền. Trí môn, pháp môn, môn thấy chư Phật, môn đến các phương, môn tâm tự tại, môn như trì, môn thần biến, môn thần thông, môn huyễn hoá, môn các pháp như huyễn.
Môn sung mãn bất khả thuyết bất khả thuyết các Bồ Tát. Môn gần gũi Như Lai chánh giác nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết số hạt bụi cõi Phật. Môn lưới huyễn rộng lớn bất khả thuyết bất khả thuyết. Môn biết cõi Phật rộng lớn khác biệt bất khả thuyết bất khả thuyết. Môn biết thế giới có thể tánh không thể tánh bất khả thuyết bất khả thuyết.
Môn biết chúng sinh tưởng bất khả thuyết bất khả thuyết. Môn thời kiếp khác biệt bất khả thuyết bất khả thuyết. Môn biết thế giới thành hoại bất khả thuyết bất khả thuyết. Môn biết các cõi Phật úp ngửa bất khả thuyết bất khả thuyết.
Giảng: Các vị Phật tử ! Ví như Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương, Ma Na Tư Long Vương, (Bà Già La Long Vương, Hoà Tu Cát Long Vương, Đức Xoa Già Long Vương, A Na Bà Đạt Đa Long Vương, Ưu Bát La Long Vương gọi là Bát Long Vương), và hết thảy các đại Long Vương khác, khi chúng mưa xuống, thì giọt nước mưa như trục bánh xe rơi xuống không ngừng, chẳng có bờ mé. Tuy mưa xuống vô lượng như vậy, nhưng mây trọn không cùng tận. Đây là đạo lý gì ? Vì rồng có thần thông, đầy đủ diệu dụng, không cần tạo tác, không cần miễn cưỡng, đây là cảnh giới tự nhiên của các Long Vương.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, khi trụ tam muội vô ngại luân này, vào hai mươi thứ pháp môn của Bồ Tát Phổ Hiền tu. Những gì là hai mươi ? Đó là :
1. Vào pháp môn tất cả tam muội.
2. Vào pháp môn nhất thiết trí huệ.
3. Vào pháp môn tất cả pháp.
4. Vào pháp môn thấy tất cả chư Phật.
5. Vào pháp môn đến mười phương.
6. Vào pháp môn tâm tự tại.
7. Vào pháp môn như trì chúng sinh.
8. Vào pháp môn thần thông biến hoá.
9. Vào pháp môn thần thông diệu dụng.
10. Vào pháp môn như huyễn như hoá.
11. Vào pháp môn tất cả các pháp như huyễn hoá.
12. Vào pháp môn đầy dẫy bất khả thuyết bất khả thuyết các Bồ Tát.
13. Vào pháp môn gần gũi Như Lai chánh giác, nhiều bất khả thuyết bất khả thuyết số hạt bụi cõi Phật (ba ngàn đại thiên thế giới là một cõi Phật).
14. Vào pháp môn lưới huyễn rộng lớn bất khả thuyết bất khả thuyết.
15. Vào pháp môn biết cõi Phật rộng lớn khác biệt bất khả thuyết bất khả thuyết.
16. Vào pháp môn biết thế giới có thể tính và không có thể tính bất khả thuyết bất khả thuyết.
17. Vào pháp môn biết chúng sinh tưởng bất khả thuyết bất khả thuyết, do đó :
« Tất cả chúng sinh bao nhiêu thứ tâm, Bồ Tát đều biết đều thấy ».

18. Vào pháp môn thời kiếp khác biệt bất khả thuyết bất khả thuyết.
19. Vào pháp môn biết thế giới hoặc thành, hoặc trụ, hoặc hoại, hoặc không, bất khả thuyết bất khả thuyết.
20. Vào pháp môn biết tất cả cõi Phật úp, hoặc ngửa, bất khả thuyết bất khả thuyết.

Như thị nhập thời, vô hữu biên tế, vô hữu cùng tận, bất bì bất yếm, bất đoạn bất tức, vô thoái vô thất; ư chư Pháp trung bất trụ phi xứ, hằng chánh tư duy, bất trầm bất cử; cầu nhất thiết trí thường vô thoái xả, vi nhất thiết Phật sát chiếu thế minh đăng, chuyển bất khả thuyết bất khả thuyết Pháp luân; dĩ diệu biện tài ti vấn Như Lai vô cùng tận thời, thị thành Phật đạo vô hữu biên tế, điều phục chúng sanh hằng vô phế xả, thường cần tu tập Phổ Hiền hạnh nguyện vị tằng hưu tức, thị hiện vô lượng bất khả thuyết bất khả thuyết sắc tướng thân vô hữu đoạn tuyệt.
Hà dĩ cố? thí như nhiên hỏa, tùy sở hữu duyên, ư nhĩ sở thời hỏa khởi bất tức.
Ở trong một niệm, đều biết như thật, khi nhập vào như vậy, không có bờ mé, không có cùng tận, không mỏi, không nhàm, không dứt, không ngừng, không thối, không mất.
Ở trong các pháp, chẳng trụ phi xứ. Luôn tư duy chân chánh, không trầm, không cử. Cầu nhất thiết trí, thường không lùi bỏ. Vì tất cả cõi Phật đèn chiếu sáng thế gian, chuyển bất khả thuyết bất khả thuyết pháp luân.
Dùng diệu biện tài, thưa hỏi Như Lai, không khi nào cùng tận. Thị hiện thành Phật đạo, không có bờ mé. Điều phục chúng sinh, luôn không xả bỏ. Thường siêng tu tập hạnh nguyện Phổ Hiền, chưa từng ngừng nghỉ. Thị hiện bất khả thuyết bất khả thuyết thân sắc tướng, không có đoạn tuyệt.
Tại sao ? Ví như đốt lửa, theo duyên đã có, thì trong lúc đó, lửa cháy không ngừng.
Giảng: Bồ Tát ở trong một niệm, đều biết cảnh giới đó chân thật, giống như khi nhập vào môn tam muội phổ huyễn như vậy. Tuy nhiên không có bờ mé, không có cùng tận, nhưng không mệt mỏi, không nhàm chán, không dứt tuyệt, không ngừng nghỉ, cũng không thối chuyển bồ đề tâm, cũng không mất đi bồ đề tâm.
Ở trong tất cả pháp, chẳng trụ nơi phi pháp. Luôn luôn tư duy chân chánh, không khởi vọng tưởng, cũng không hôn trầm, cũng không trạo cử. Bồ Tát ngồi thiền không ngủ gục, tại sao phàm phu ngồi thiền hay ngủ gục ? Vì tâm cầu pháp không chân thật. Bồ Tát mỗi cử chỉ hành động, đều theo quy cụ, không phóng dật. Phàm phu thì ngược lại, cho rằng giữ quy cụ thì không được tự do, cho nên giải đãi phóng đãng. Phải hiểu rằng, sự tự do như thế, khi chết đi rồi thì chẳng còn tự do nữa.
Bồ Tát vì cầu nhất thiết trí, cho nên thường không lùi bỏ bồ đề tâm. Vì tất cả cõi nước chư Phật, làm đèn sáng chiếu thế gian. Lại thường chuyển bất khả thuyết bất khả thuyết pháp luân. Dùng biện tài không thể nghĩ bàn, thưa hỏi Như Lai thật tướng của tất cả các pháp, chẳng khi nào cùng tận. Thị hiện chư Phật thành tựu đạo bồ đề Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, không có bờ mé. Thời thời điều phục chúng sinh cang cường, không khi nào xả bỏ. Điều là điều luyện thân khẩu ý ba nghiệp, phục là chế phục tất cả vọng tưởng. Vì chúng sinh cang cường, khó điều khó phục, Bồ Tát xử dụng từ bi hỷ xả bốn vô lượng tâm để điều phục. Sau đó, lại dùng bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, bốn pháp nhiếp để nghiếp thọ, khiến cho chúng sinh phát bồ đề tâm, cầu vô thượng đạo. Bồ Tát luôn luôn siêng tu tập hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, chưa từng ngừng nghỉ. Lại thị hiện bất khả thuyết bất khả thuyết thân sắc tướng, không có khi nào đoạn tuyệt. Tại sao phải như thế ? Là nguyên nhân gì ? Đưa ra một ví dụ, giống như đốt lửa, phàm là có vật làm duyên để đốt cháy, thì trong lúc đó, lửa cháy lên không ngừng.

Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, quan sát chúng sanh giới, Pháp giới, thế giới, do như hư không vô hữu biên tế, nãi chí năng ư nhất niệm chi khoảnh, vãng bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Phật sở. Nhất nhất Phật sở nhập bất khả thuyết bất khả thuyết nhất thiết trí chủng chủng sái biệt Pháp; lệnh bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh giới xuất gia vi đạo, cần tu thiện căn, cứu cánh thanh tịnh; lệnh bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát ư Phổ Hiền hạnh nguyện vị quyết định giả nhi đắc quyết định, an trụ Phổ Hiền trí tuệ chi môn; dĩ vô lượng phương tiện, nhập bất khả thuyết bất khả thuyết tam thế thành, trụ, hoại quảng đại sai biệt kiếp, ư bất khả thuyết bất khả thuyết thành, trụ, hoại thế gian sái biệt cảnh giới, khởi ư nhĩ sở đại bi đại nguyện, điều phục vô lượng nhất thiết chúng sanh tất sử vô dư.
Hà dĩ cố? thử Bồ-Tát Ma-ha-tát vi dục độ thoát nhất thiết chúng sanh, tu Phổ Hiền hạnh, sanh Phổ Hiền trí, mãn túc Phổ Hiền sở hữu hạnh nguyện.
Đại Bồ Tát cũng lại như thế, quán sát chúng sinh giới, pháp giới, thế giới, giống như hư không, chẳng có bờ mé. Cho đến có thể ở trong khoảng một niệm, đến chỗ chư Phật, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.
Ở chỗ mỗi vị Phật, vào bất khả thuyết bất khả thuyết nhất thiết trí đủ thứ pháp khác biệt. Khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết cõi chúng sinh, xuất gia vì đạo, siêng tu căn lành, rốt ráo thanh tịnh. Khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát, chưa quyết định nơi hạnh nguyện Phổ Hiền, được quyết định, an trụ môn trí huệ Phổ Hiền.
Dùng vô lượng phương tiện, vào bất khả thuyết bất khả thuyết ba đời kiếp thành trụ hoại rộng lớn khác biệt. Nơi bất khả thuyết bất khả thuyết cảnh giới thế gian thành trụ hoại khác biệt, sinh khởi bấy nhiêu đại bi đại nguyện, điều phục vô lượng tất cả chúng sinh, đều khiến không sót thừa. Tại sao ? Vì đại Bồ Tát này muốn độ thoát tất cả chúng sinh, tu hạnh Phổ Hiền, sinh trí huệ Phổ Hiền, đầy đủ hết thảy hạnh nguyện Phổ Hiền.
Giảng: Đại Bồ Tát cũng lại như thế, hay quán sát nhân duyên chúng sinh giới, hay quán sát pháp giới, hay quán sát thế giới, giống như hư không, chẳng có bờ mé. Cho đến có thể ở trong khoảng một niệm, đến đạo tràng của chư Phật, nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật.
Ở chỗ đạo tràng của mỗi vị Phật, vào bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn nhất thiết trí đủ thứ pháp khác biệt. Hay khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết cõi chúng sinh, xuất gia tu đạo, tinh tấn siêng năng tu tập căn lành, rốt ráo đắc được thanh tịnh, chẳng có chút nhiễm ô nào. Hay khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát, đối với hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền tu, người chưa quyết định nơi hạnh nguyện Phổ Hiền, thì đắc được trí huệ quyết định, để tu hạnh nguyện Bồ Tát Phổ Hiền, an trụ môn trí huệ Phổ Hiền.
Dùng vô lượng pháp môn phương tiện khéo léo, vào bất khả thuyết bất khả thuyết ba đời kiếp thành trụ hoại rộng lớn khác biệt. Nơi bất khả thuyết bất khả thuyết cảnh giới thế gian thành trụ hoại khác biệt, sinh khởi bất khả thuyết bất khả thuyết tâm đại bi và tâm đại nguyện, điều phục vô lượng vô biên tất cả chúng sinh, khiến cho hết thảy chúng sinh đều được giải thoát, chẳng có một chúng sinh nào mà không được độ. Tại sao ? Vì vị đại Bồ Tát này, muốn độ thoát tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, cho nên tu hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, sinh ra trí huệ của Bồ Tát Phổ Hiền, đầy đủ hết thảy tất cả hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền

Thị cố, chư Bồ-tát ưng ư như thị chủng loại, như thị cảnh giới, như thị uy đức, như thị quảng đại, như thị vô lượng, như thị bất tư nghị, như thị phổ chiếu minh, như thị nhất thiết chư Phật hiện tiền trụ, như thị nhất thiết Như Lai sở hộ niệm, như thị thành tựu vãng tích thiện căn, như thị kỳ tâm vô ngại bất động
Tam muội chi trung, cần gia tu tập, ly chư nhiệt não, vô hữu bì yếm, tâm Bất-thoái-chuyển, lập thâm chí lạc, dũng mãnh vô khiếp, thuận tam muội cảnh giới, nhập nan tư trí địa. Bất y văn tự, bất trước thế gian, bất thủ chư Pháp, bất khởi phân biệt, bất nhiễm trước thế sự, bất phân biệt cảnh giới,
Do vậy các Bồ Tát, phải ở nơi giống loại như vậy, cảnh giới như vậy, oai đức như vậy, rộng lớn như vậy, vô lượng như vậy, không thể nghĩ bàn như vậy, chiếu sáng khắp như vậy, tất cả chư Phật hiện tiền trụ như vậy, được tất cả Như Lai hộ niệm như vậy, thành tựu căn lành thuở xưa như vậy, trong tam muội tâm vô ngại chẳng động như vậy.
Siêng năng tu tập, lìa các nhiệt não, chẳng có mỏi nhàm, tâm chẳng thối chuyển, lập chí thâm sâu, dũng mãnh chẳng sợ. Tuỳ thuận cảnh giới tam muội, vào trí địa khó nghĩ bàn, chẳng nương văn tự, chẳng chấp thế gian, chẳng thủ lấy các pháp, chẳng khởi phân biệt, chẳng nhiễm trước việc đời, chẳng phân biệt cảnh giới.
Giảng: Vì vậy cho nên tất cả các Bồ Tát, phải đối với nơi giống loại như đã nói ở trước, cảnh giới như đã nói, oai đức như đã nói, nguyện lực rộng lớn, vô lượng pháp môn, cảnh giới không thể nghĩ bàn, trí huệ quang minh Phật pháp chiếu sáng khắp, tất cả chư Phật thị hiện trụ nơi ba đời như vậy, được tất cả chư Phật hộ niệm và gia trì như vậy, thành tựu căn lành thuở xưa như vậy, tâm Bồ Tát không chướng, không ngại, ở trong tam muội bất động như vậy.
Siêng năng tu tập pháp môn hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền tu tập. Phải lìa khỏi tất cả nhiệt não, chẳng có khi nào mệt mỏi và nhàm chán. Bồ Tát vì pháp, tâm chẳng thối chuyển, lập xuống chí nguyện thâm sâu, dũng mãnh tinh tấn, tâm chẳng sợ hãi, mà được an vui. Tuỳ thuận cảnh giới tam muội, vào trí địa không thể nghĩ bàn, tức cũng là chứng nhập quả vị Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Bồ Tát chẳng nhất định y chiếu theo văn tự để tu hành, chẳng chấp trước vào tất cả pháp hữu vi thế gian, cũng chẳng thủ lấy tất cả pháp nhiễm ô thế gian, cũng chẳng sinh khởi tất cả tâm phân biệt, cũng chẳng nhiễm trước tất cả việc đời, cũng chẳng phân biệt tất cả cảnh giới.

Ư chư Pháp trí đãn ưng an trụ, bất ưng xưng lượng. Sở vị: thân cận nhất thiết trí, ngộ giải Phật Bồ-đề, thành tựu pháp quang minh, thí dữ nhất thiết chúng sanh thiện căn. Ư ma giới trung bạt xuất chúng sanh, lệnh kỳ đắc nhập Phật Pháp cảnh giới, lệnh bất xả đại nguyện, cần quán xuất đạo, tăng quảng tịnh cảnh, thành tựu chư độ. Ư nhất thiết Phật thâm sanh tín giải. Thường ưng quan sát nhất thiết pháp tánh, vô thời tạm xả;
Nơi các pháp trí, chỉ nên an trụ, không nên so lường. Tức là : Gần gũi nhất thiết trí, ngộ hiểu Phật bồ đề, thành tựu pháp quang minh, thí cho tất cả chúng sinh căn lành.
Ở trong cõi ma, cứu chúng sinh thoát khỏi, khiến cho họ được vào cảnh giới Phật pháp, khiến cho không bỏ đại nguyện, siêng quán đạo xuất thế, thêm rộng cảnh thanh tịnh, thành tựu các độ. Nơi tất cả chư Phật, sinh tin hiểu thâm sâu. Thường phải quán sát tất cả pháp tánh, không lúc nào tạm bỏ.
Giảng: Bồ Tát đối với tất cả các pháp và nhất thiết trí, phải an trụ ở trong đó, không nên so lường, pháp rốt ráo có bao nhiêu ? Trí rốt ráo có bao nhiêu ? Không thể sinh tâm phân biệt. Nghĩa là : Gần gũi nhất thiết trí huệ, ngộ hiểu Phật bồ đề giác đạo, thành tựu pháp trí huệ quang minh. Sau đó bố thí cho tất cả chúng sinh, khiến cho họ căn lành tăng trưởng. Đối với chúng sinh ở trong cõi ma, phải cứu họ thoát khỏi biển phiền não nước sâu lửa nóng, khiến cho họ được vào cảnh giới Phật pháp.
Trước khi chúng ta chưa xuất gia phát bồ đề tâm, đều làm quyến thuộc của ma vương, làm việc gì cũng đều có quan hệ với ma, ví như ích kỷ lợi mình, đố kị chướng ngại, tranh luận đệ nhất, nói thị phi, đều bị ma chỉ huy. Cho nên nói chúng sinh là quyến thuộc của ma. Nếu tu hành thì sẽ thành Phật; nếu không tu hành tức là chúng sinh. Đây là hai con đường giữa ánh sáng và đen tối, do chúng sinh tự mình lựa chọn. Cứ hưởng thụ tài sắc danh ăn và ngủ năm dục, thì vĩnh viễn làm chúng sinh. Nếu xuất gia tu đạo, chỉ cần « Siêng tu giới định huệ, diệt trừ tham sân si », thì thẳng đến cảnh Niết Bàn bờ bên kia.
Bồ Tát có tâm từ bi, từ trong cảnh ma, cứu độ chúng sinh, khiến cho chúng sinh sớm được giác ngộ, chứng được cảnh giới Phật pháp, khiến cho tất cả Bồ Tát và phàm phu không xả bỏ đại nguyện đã phát, siêng năng quán sát con đường thoát khỏi ba cõi, tăng trưởng cảnh giới thanh tịnh rộng lớn, thành tựu mười pháp môn Ba la mật. Đối với pháp của mười phương ba đời tất cả chư Phật đã nói, phải sinh tâm tin hiểu thâm sâu, phải thường quán sát tự tánh của tất cả các pháp, không lúc nào không quán sát.

Ứng tri tự thân dữ chư pháp tánh phổ giai bình đẳng; ứng đương minh giải thế gian sở tác, thị kỳ như pháp trí tuệ phương tiện; ưng Thường-tinh-tấn, vô hữu hưu tức; ưng quán tự thân thiện căn tiên thiểu; ưng cần tăng trưởng tha chư thiện căn; ưng tự tu hành nhất thiết trí đạo; ưng cần tăng trưởng Bồ Tát cảnh giới; ưng lạc thân cận chư thiện tri thức; ưng dữ đồng hành nhi cọng chỉ trụ; ưng bất phân biệt Phật; ưng bất xả ly niệm; ưng thường an trụ bình đẳng pháp giới; ứng tri nhất thiết tâm thức như huyễn; ưng tri thế gian chư hạnh như mộng; ứng tri chư Phật nguyện lực xuất hiện do như ảnh tượng; ứng tri nhất thiết chư quảng đại nghiệp do như biến hóa;
Ứng tri ngôn ngữ tất giai như hưởng; ưng quán chư Pháp nhất thiết như huyễn; Ứng tri nhất thiết sanh diệt chi Pháp giai như âm thanh; ứng tri sở vãng nhất thiết Phật sát giai vô thể tánh; ưng vi thỉnh vấn Như Lai Phật Pháp bất sanh bì quyện; ưng vi khai ngộ nhất thiết thế gian, cần gia giáo hối nhi bất xả ly; ưng vi điều phục nhất thiết chúng sanh, tri thời thuyết Pháp nhi bất hưu tức.
Nên biết thân mình và các pháp tánh, thảy đều bình đẳng. Phải hiểu rõ việc làm của thế gian, chỉ bày cho họ trí huệ phương tiện đúng như pháp. Phải thường tinh tấn, không có ngừng nghỉ.
Nên quán thân mình, căn lành kém ít. Nên siêng năng tăng trưởng các căn lành cho họ. Nên tự mình tu hành đạo nhất thiết trí. Nên siêng năng tăng trưởng cảnh giới của Bồ Tát. Nên thích gần gũi các thiện tri thức. Nên cùng ở với người đồng hành. Đừng nên phân biệt Phật, đừng nên xả lìa niệm.
Nên thường an trụ pháp giới bình đẳng. Nên biết tất cả tâm thức như huyễn. Nên biết thế gian các hành như mộng. Nên biết nguyện lực xuất hiện ra đời của chư Phật, giống như hình bóng. Nên biết tất cả các nghiệp rộng lớn, giống như biến hoá.
Nên biết lời nói thảy đều như tiếng vang. Nên quán tất cả các pháp như huyễn. Nên biết tất cả pháp sinh diệt, đều như âm thanh. Nên biết chỗ đến của tất cả cõi Phật, đều không thể tánh. Nên thưa hỏi Như Lai về Phật pháp, mà không sinh tâm mệt mỏi. Nên vì khai ngộ tất cả chúng sinh thế gian, mà siêng năng dạy bảo, không xả bỏ chúng sinh. Nên vì điều phục tất cả chúng sinh, biết thời thuyết pháp, mà không ngừng nghỉ.
Giảng: Nên biết thân thể của mình và tự tánh của các pháp, thảy đều bình đẳng. Nên minh bạch hiểu rõ việc làm của thế gian, chỉ bày cho họ pháp chân thật, pháp trí huệ phương tiện. Phải thường tinh tấn học tập Phật pháp, không có ngừng nghỉ. Nên quán sát thân mình, thuở xưa tu căn lành rất ít. Nên siêng tăng trưởng tất cả căn lành, chẳng những khiến cho mình tăng trưởng căn lành, mà cũng khiến cho họ căn lành tăng trưởng.
Nên tự mình tu hành đạo nhất thiết trí, cũng nên khiến cho họ tu hành đạo nhất thiết trí, đó là tư tưởng của Bồ Tát. Do đó : « Tự giác giác tha, tự độ độ tha, tự lợi lợi tha ». Tư tưởng của tiểu thừa là « Tự giác chẳng giác tha, tự độ chẳng độ tha, tự lợi chẳng lợi tha ». Đó là tác phong của tự liễu hán !
Nên siêng năng tăng trưởng cảnh giới của Bồ Tát. Nên ưa thích gần gũi tất cả thiện tri thức. Nên cùng tu hành với thiện tri thức mà ở với nhau. Đừng nên phân biệt tất cả chư Phật. Đừng nên xả lìa niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng. Nên thường an trụ trong pháp giới bình đẳng. Nên biết tất cả tâm thức đều hư vọng như huyễn như hoá. Nên biết thế gian tất cả các hành không chân thật như mộng như bọt nước.
Nên biết chư Phật xuất hiện ra đời, đều vì nguyện lực đã phát ra trong quá khứ, giống như hình bóng. Nên biết tất cả các nghiệp rộng lớn, giống như biến hoá. Nên biết lời nói, đều như tiếng vang. Nên quán tất cả các pháp như huyễn không thật. Nên biết tất cả pháp sinh diệt, đều như âm thanh, hốt có hốt không. Nên biết chỗ đến của tất cả cõi Phật, đều chẳng có một thật thể. Nên thưa hỏi pháp mà Phật đã nói, không sinh tâm mệt mỏi. Nên vì khai ngộ tất cả chúng sinh thế gian, siêng năng dạy bảo, không xả bỏ chúng sinh. Nên vì điều phục tất cả chúng sinh, biết lúc nào vì chúng sinh thuyết pháp, vĩnh viễn không ngừng nghỉ. Tóm lại, tuỳ thời tuỳ lúc vì chúng sinh thuyết pháp, do đó : « Quán căn cơ chúng sinh, vì người thuyết pháp ».
Nhìn lại đoạn kinh văn này, chúng ta người tu đạo, phải triệt để phản tỉnh lại, có phải hằng ngày y chiếu theo Phật pháp tu hành ? Có tâm đại công vô tư chăng ? Có tâm ích kỷ chăng ? Những gì chúng ta làm mỗi ngày là lợi ích chúng sinh hay là lợi ích chính mình ? Phải kiểm thảo triệt để lại xem.
Nếu muốn lợi ích chúng sinh, thì lợi ích chúng sinh như thế nào ? Có phải mỗi ngày khởi vọng tưởng lợi ích chúng sinh ? Có phải mỗi ngày tìm người nhiễu loạn họ để lợi ích chúng sinh ? Mỗi ngày điên điên đảo đảo, chẳng nhận ra được mình sai. Mỗi ngày cẩu cẩu thả thả, chẳng chịu thành thật tu hành. Như vậy có thể lợi ích chúng sinh chăng ? Chẳng hồi quang phản chiếu, chẳng trở về cầu nơi chính mình, như vậy có thể lợi ích chúng sinh chăng ? Những chỗ này phải đặc biệt chú ý.
Nếu mỗi ngày chuyên vì mình mà tính toán, thì sẽ lỗ vốn. Giống như buôn bán, phải làm cho tiền vốn có lời. Nếu như chuyên làm việc lợi ích cho người khác, mà không lợi mình, như vậy, thì sự làm ăn (đức hạnh) càng làm càng phát triển. Chúng ta học Phật pháp, chỉ có một phương pháp, đó là cước đạp thật địa, thành thật tu hành. Phải biết mình từ vô thuỷ đến nay, vì có tâm tham sân si, cho nên tu hành một chút cũng không có sự thành tựu.
Nếu tâm nhiễm ô quá nặng, tâm thanh tịnh quá nhẹ, thì tu đến thuở vị lai, cũng không thể thành công. Cho nên phải tu hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền. Vì hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, chẳng có tư tưởng ích kỷ, chẳng có hành vi ích kỷ. Nếu như dùng tà tri tà kiến để chi phối hành vi của mình, ngày ngày chướng ngại người khác tu hành, thì nhất định sẽ đoạ vào địa ngục vô gián, vĩnh viễn không ra khỏi.
Hy vọng mọi người phải đoàn kết nhất chí, phải hoà bình với nhau, dùng tâm thành đối đãi với nhau, dùng đức cảm hoá. Chúng ta đều là người có nhân duyên, mới có thể cùng ở một chỗ học tập tu hành Phật pháp. Đây là căn lành đã gieo xuống nhiều đời nhiều kiếp, cho nên mới không phân biệt chủng tộc, không phân biệt quốc tịch, mọi người cùng nhau hoà thuận. Chuyên tâm cùng nhau nghiên cứu Phật pháp, tụng kinh trì chú, tham thiền đả toạ. Do đó « Bốn biển đều là huynh đệ », cũng có thể nói toàn thế giới đều là người một nhà. Ai ai cũng quan niệm như vậy, lấy Đức Phật Thích Ca làm thầy, chúng ta đều là con cháu của Ngài, thì hà tất phải đấu tranh, tranh sáng đoạt tối, làm tổn thương hoà khí, trở thành kẻ địch. Có câu nói, nói rất là có đạo lý :
« Chẳng nhìn Tăng mà nhìn mặt Phật ».
Mọi người đều là đệ tử của Phật ! Phải trợ giúp lẫn nhau, chỉ dẫn lẫn nhau, đồng tâm hiệp lực, phát triển Phật giáo, khiến cho rộng lớn, đến khắp cùng các nơi trên thế giới, làm cho lòng người hướng thiện, chấm dứt chiến tranh. Mọi người phải sớm tiến về trước, hoàn thành sứ mạng của chúng ta.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị tu hành Phổ Hiền chi hạnh, như thị viên mãn Bồ Tát cảnh giới, như thị thông đạt xuất ly chi đạo, như thị thọ trì tam thế Phật Pháp, như thị quan sát nhất thiết trí môn, như thị tư duy bất biến dị pháp, như thị minh khiết tăng thượng chí lạc, như thị tín giải nhất thiết Như Lai, như thị liễu tri Phật quảng đại lực, như thị quyết định vô sở ngại tâm, như thị nhiếp thọ nhất thiết chúng sanh.
Phật tử ! Đại Bồ Tát tu hành hạnh Phổ Hiền như vậy. Viên mãn cảnh giới Bồ Tát như vậy. Thông đạt đạo xuất ly như vậy. Thọ trì pháp ba đời của chư Phật như vậy. Quán sát môn nhất thiết trí như vậy.
Tư duy pháp không biến đổi như vậy. Sáng sạch tăng thượng chí ưa thích như vậy. Tin hiểu tất cả Như Lai như vậy. Biết rõ Phật lực rộng lớn như vậy. Quyết định tâm không chướng ngại như vậy. Nhiếp thọ tất cả chúng sinh như vậy.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát thời thời tu hành hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền, nơi nơi trợ giúp chúng sinh thành tựu Phật đạo. Hay làm viên mãn cảnh giới của Bồ Tát, sẽ thông đạt đạo thoát khỏi ba cõi, sẽ thọ trì pháp của ba đời chư Phật đã nói, thọ nơi tâm, trì nơi thân, phải tâm miệng như một, nói được thì làm được, đừng có « Khẩu đầu thiền ». Nếu nói được mà làm không được, cũng chẳng có ích gì. Tóm lại, bất cứ làm những gì đều lợi ích người khác đó là Phật pháp; còn làm những gì mà lợi ích chính mình, đó là ma pháp. Chánh tà hai pháp, do thiện ác để quyết định. Người thiện thì giúp người, còn kẻ ác thì hại người, tâm ích kỷ tuyệt đối không thể có; tâm cứu đời cứu người, tuyệt đối không thể không có. Do đó : « Hy sinh tiểu ngã, mà thành tựu đại ngã ». Phải có tinh thần như thế, thì mới thật là Phật tử.
Giống như dùng quán sát trí để quán sát môn nhất thiết trí, để tư duy pháp không biển đổi, tức cũng là đừng thấy khác mà nghĩ sai lệch, bị cảnh giới chuyển. Sáng sạch trí huệ tăng trưởng căn lành, chí nguyện để tu hành, đắc được cảnh giới khoái lạc. Tin ngưỡng thấu hiểu pháp của tất cả chư Phật nói, để biết rõ Phật có sức lực rộng lớn, để tâm tin quyết định không có sự chướng ngại, để nhiếp thọ tất cả chúng sinh, Bồ Tát tu hành hạnh Phổ Hiền, đắc được mười một cảnh giới như vậy.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát nhập Phổ Hiền Bồ Tát sở trụ như thị Đại trí tuệ tam muội thời, thập phương các hữu bất khả thuyết bất khả thuyết quốc độ, nhất nhất quốc độ các hữu bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai danh hiệu, nhất nhất danh hiệu các hữu bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư Phật nhi hiện kỳ tiền,
Phật tử ! Khi đại Bồ Tát nhập vào tam muội đại trí huệ, chỗ trụ của Bồ Tát Phổ Hiền như vậy, thì mười phương đều có bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi cõi nước, đều có danh hiệu Như Lai nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi danh hiệu, đều có chư Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, hiện ra ở trước.
Giảng: Các vị Phật tử ! Khi đại Bồ Tát nhập vào tam muội đại trí huệ, chỗ trụ của Bồ Tát Phổ Hiền như vậy, thì mười phương đều có bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Ở trong mỗi cõi nước, lại có danh hiệu Như Lai nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Ở trong mỗi danh hiệu, lại có chư Phật nhiều như số hạt bụi bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, thảy đều thị hiện ra ở trước Bồ Tát.

Dữ Như Lai niệm lực, lệnh bất vong thất Như Lai cảnh giới; dữ nhất thiết pháp cứu cánh tuệ, lệnh nhập nhất thiết trí; dữ tri nhất thiết pháp chủng chủng nghĩa quyết định tuệ, lệnh thọ trì nhất thiết Phật Pháp thú nhập vô ngại; dữ vô thượng Phật Bồ-đề, lệnh nhập nhất thiết trí khai ngộ Pháp giới; dữ Bồ Tát cứu cánh tuệ, lệnh đắc nhất thiết pháp quang minh, vô chư hắc ám; dữ Bồ Tát bất thoái trí, lệnh tri thời, phi thời, thiện xảo phương tiện điều phục chúng sanh; dữ vô chướng ngại Bồ Tát biện tài, lệnh ngộ giải vô biên Pháp diễn thuyết vô tận; dữ thần thông biến hóa lực, lệnh hiện bất khả thuyết bất khả thuyết sái biệt thân vô biên sắc tướng chủng chủng bất đồng khai ngộ chúng sanh; dữ viên mãn ngôn âm, lệnh hiện bất khả thuyết bất khả thuyết sái biệt âm thanh chủng chủng ngôn từ khai ngộ chúng sanh; dữ bất đường quyên lực, lệnh nhất thiết chúng sanh nhược đắc kiến hình, nhược đắc văn Pháp giai tất thành tựu, vô không quá giả.
Ban cho niệm lực của Như Lai, khiến cho không quên mất cảnh giới của Như Lai.
Ban cho tất cả pháp huệ rốt ráo, khiến cho vào nhất thiết trí.
Ban cho biết tất cả pháp đủ thứ nghĩa quyết định huệ, khiến cho thọ trì tất cả Phật pháp, nhập vào vô ngại.
Ban cho Phật bồ đề vô thượng, khiến cho vào nhất thiết trí, khai ngộ pháp giới.
Ban cho huệ rốt ráo của Bồ Tát, khiến cho đắc được tất cả pháp quang minh, không có các đen tối.
Ban cho trí bất thối của Bồ Tát, khiến cho biết thời, phi thời, phương tiện khéo léo điều phục chúng sinh.
Ban cho biện tài không chướng ngại của Bồ Tát, khiến cho ngộ hiểu vô biên pháp, diễn nói vô tận.
Ban cho sức thần thông biến hoá, khiến cho hiện bất khả thuyết bất khả thuyết thân khác nhau, vô biên sắc tướng, đủ thứ sự khác nhau, để khai ngộ chúng sinh.
Ban cho âm thanh viên mãn, khiến cho hiện bất khả thuyết bất khả thuyết âm thanh khác nhau đủ thứ lời lẽ, để khai ngộ chúng sinh.
Ban cho sức không luống bỏ, khiến cho tất cả chúng sinh, hoặc được thấy thân hình, hoặc được nghe pháp, thảy đều thành tựu, không có luống qua.
Giảng: Có bất khả thuyết chư Phật, thị hiện ở trước vị đại Bồ Tát này. Ban cho mười sức trí huệ:
1. Ban cho niệm lực của Như Lai, khiến cho không quên mất cảnh giới của Như Lai.
2. Ban cho tất cả pháp trí huệ rốt ráo, khiến cho Ngài chứng nhập vào nhất thiết trí.
3. Ban cho biết tất cả pháp đủ thứ nghĩa lý, trí huệ quyết định, khiến cho Ngài thọ trì tất cả Phật pháp, nhập vào pháp môn không chướng ngại.
4. Ban cho Phật bồ đề giác đạo vô thượng, khiến cho Ngài vào nhất thiết trí, khai ngộ pháp giới tất cả chúng sinh.
5. Ban cho huệ rốt ráo của Bồ Tát, khiến cho Ngài đắc được tất cả pháp quang minh, chiếu phá tất cả đen tối.
6. Ban cho trí huệ bất thối của Bồ Tát, khiến cho Ngài biết thời thuyết pháp, hoặc chẳng phải thời thuyết pháp, phương tiện khéo léo để điều phục tất cả chúng sinh.
7. Ban cho biện tài không chướng ngại của Bồ Tát, khiến cho Ngài khai ngộ thấu hiểu vô biên Phật pháp, diễn nói vô tận diệu pháp.
8. Ban cho sức thần thông biến hoá, khiến cho Ngài hiện ra bất khả thuyết bất khả thuyết thân khác nhau, vô lượng vô biên sắc tướng, đủ thứ sự khác nhau, để khai ngộ tất cả chúng sinh.
9. Ban cho âm thanh viên mãn vô ngại, khiến cho Ngài hiện ra bất khả thuyết bất khả thuyết âm thanh khác nhau, đủ thứ lời lẽ khác nhau, để khai ngộ tất cả chúng sinh.
10. Ban cho sức không luống bỏ, khiến cho tất cả chúng sinh, hoặc được thấy thân hình Bồ Tát, hoặc nghe được pháp âm của Bồ Tát, thảy đều thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, không có luống qua, nghĩa là không thể nào không đắc được lợi ích. Tóm lại, phàm là thấy được tướng của Bồ Tát, nghe được pháp của Bồ Tát, đều thành Phật đạo.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị mãn túc Phổ Hiền hạnh cố, đắc Như Lai lực, tịnh xuất ly đạo, mãn nhất thiết trí, dĩ vô ngại biện tài thần thông biến hóa, cứu cánh điều phục nhất thiết chúng sanh; cụ Phật uy đức, tịnh Phổ Hiền hạnh, trụ Phổ Hiền đạo, tận vị lai tế, vi dục điều phục nhất thiết chúng sanh, chuyển nhất thiết Phật vi diệu pháp luân. Hà dĩ cố?
Phật tử! Vì đại Bồ Tát đầy đủ hạnh Phổ Hiền như vậy, nên đắc được lực của Như Lai, thanh tịnh đạo xuất ly, viên mãn nhất thiết trí. Dùng biện tài vô ngại, thần thông biến hoá, rốt ráo điều phục tất cả chúng sinh, đủ oai đức của Phật, thanh tịnh hạnh Phổ Hiền, trụ đạo Phổ Hiền. Hết thuở vị lai, vì muốn điều phục tất cả chúng sinh, chuyển bánh xe pháp vi diệu của tất cả chư Phật. Tại sao?
Giảng: Các vị Phật tử! Vì đại Bồ Tát tu hành như vậy, nên viên mãn đầy đủ hạnh Bồ Tát Phổ Hiền như vậy, nên đắc được lực của Như Lai gia bị, thanh tịnh đạo xuất ly ba cõi, viên mãn nhất thiết trí. Dùng biện tài vô ngại, thần thông biến hoá vô ngại, rốt ráo điều phục được tất cả chúng sinh. Đầy đủ đại oai đức của Phật, thanh tịnh hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu, trụ đạo của Bồ Tát Phổ Hiền tu. Hết thuở vị lai, vì muốn điều phục tất cả chúng sinh, mà chuyển bánh xe pháp vi diệu của tất cả chư Phật. Đây là nguyên nhân gì?

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu như thị thù thắng đại nguyện chư Bồ-tát hạnh, tức vi nhất thiết thế gian Pháp sư, tức vi nhất thiết thế gian Pháp nhật, tức vi nhất thiết thế gian trí nguyệt; tức vi nhất thiết thế gian Tu Di Sơn Vương, nghi nhiên cao xuất, kiên cố bất động; tức vi nhất thiết thế gian vô nhai trí hải; tức vi nhất thiết thế gian chánh pháp minh đăng, phổ chiếu vô biên, tướng tục bất đoạn;
Vi nhất thiết chúng sanh khai thị vô biên thanh tịnh công đức, giai lệnh an trụ công đức thiện căn; thuận nhất thiết trí, đại nguyện bình đẳng, tu tập Phổ Hiền quảng đại chi hạnh, thường năng khuyến phát vô lượng chúng sanh, trụ bất khả thuyết bất khả thuyết quảng đại hạnh tam muội, hiện đại tự tại.
Phật tử! Đại Bồ Tát này thành tựu các hạnh Bồ Tát đại nguyện thù thắng như vậy: Là pháp sư của tất cả thế gian. Là mặt trời pháp của tất cả thế gian. Là mặt trăng trí huệ của tất cả thế gian. Là núi chúa Tu Di của tất cả thế gian, cao lớn vòi vọi, kiên cố bất động. Là biển trí không bờ của tất cả thế gian. Là đèn sáng chánh pháp của tất cả thế gian, chiếu khắp vô biên, liên tục không dứt.
Vì tất cả chúng sinh khai thị vô biên công đức thanh tịnh, đều khiến cho họ an trụ nơi công đức căn lành. Tuỳ thuận nhất thiết trí đại nguyện bình đẳng. Tu tập hạnh Phổ Hiền rộng lớn. Thường hay khuyến phát vô lượng chúng sinh, trụ bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội hạnh rộng lớn, hiện đại tự tại.
Giảng: Các vị Phật tử! Vị đại Bồ Tát này, Ngài dùng đủ thứ căn lành, thành tựu hạnh của tất cả Bồ Tát tu và đại nguyện thù thắng như đã nói ở trước, Ngài thành tựu đại nguyện và đại hạnh: Là đại pháp sư của tất cả thế gian. Là mặt trời pháp của tất cả thế gian. Là mặt trăng trí huệ của tất cả thế gian, cũng là mặt trăng mát mẻ. Là núi chúa Tu Di của tất cả thế gian, vì cao lớn vòi vọi, hơn hẳn tất cả các núi khác, kiên cố bất động. Là biển trí không bờ bến của tất cả thế gian. Là đèn sáng chánh pháp của tất cả thế gian, chiếu khắp mười phương vô biên thế giới, liên tục không gián đoạn.
Vì tất cả chúng sinh khai thị vô biên công đức thanh tịnh, khiến cho tất cả chúng sinh an trụ nơi tất cả công đức căn lành. Tuỳ thuận nhất thiết trí huệ, tất cả đại nguyện đều bình đẳng. Tu tập hạnh Bồ Tát Phổ Hiền rộng lớn. Thường khuyến phát vô lượng chúng sinh, trụ bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội đại hạnh Bồ Tát Phổ Hiền rộng lớn, thị hiện thần thông biến hoá đại tự tại.

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát, hoạch như thị trí, chứng như thị pháp, ư như thị pháp thẩm trụ minh kiến; đắc như thị thần lực, trụ như thị cảnh giới, hiện như thị thần biến, khởi như thị thần thông; thường an trụ đại bi, thường lợi ích chúng sanh, khai thị chúng sanh an ổn chánh đạo, kiến lập phước trí đại quang minh tràng; chứng bất tư nghị giải thoát, trụ nhất thiết trí giải thoát, đáo chư Phật giải thoát bỉ ngạn, học bất tư nghị giải thoát phương tiện môn dĩ đắc thành tựu, nhập Pháp giới sái biệt môn vô hữu thác loạn, ư Phổ Hiền bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội du hí tự tại, trụ sư tử phấn tấn trí tâm ý vô ngại.
Phật tử! Đại Bồ Tát này trí huệ như vậy, chứng pháp như vậy, nơi pháp như vậy, suy xét trụ thấy rõ. Đắc được thần lực như vậy, trụ cảnh giới như vậy, hiện thần biến như vậy, khởi thần thông như vậy. Thường an trụ đại bi, thường lợi ích chúng sinh, khai thị chúng sinh an ổn chánh đạo, kiến lập phước trí tràng đại quang minh. Chứng được giải thoát không nghĩ bàn, trụ nơi giải thoát nhất thiết trí, đến bờ giải thoát bên kia của chư Phật.
Học môn phương tiện giải thoát không nghĩ bàn. Đã được thành tựu vào môn pháp giới khác biệt, chẳng có tán loạn. Nơi bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội Phổ Hiền, du hí tự tại. Trụ nơi trí huệ sư tử phấn tấn, tâm ý vô ngại.
Giảng: Các vị Phật tử! Vị đại Bồ Tát này, đắc được trí huệ như vậy, chứng được pháp môn như vậy. Đối với pháp này, suy xét chứng được trí huệ thấy rõ. Đắc được thần lực không thể nghĩ bàn, trụ nơi cảnh giới không thể nghĩ bàn, hiện ra thần biến không thể nghĩ bàn, sinh khởi thần thông không thể nghĩ bàn. Thường thường an trụ tâm đại bi, luôn luôn lợi ích tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát tâm bồ đề, thường thường khai thị tất cả chúng sinh, an ổn trụ nơi bồ đề chánh đạo, kiến lập phước trí tràng đại quang minh. Chứng được giải thoát không nghĩ bàn. Trụ nơi giải thoát nhất thiết trí, đến được bờ giải thoát bên kia của tất cả chư Phật.
Học tập môn phương tiện giải thoát không nghĩ bàn, đã được thành tựu vào môn pháp giới khác biệt. Pháp môn tuy rất nhiều, nhưng chẳng có tán loạn. Đối với bất khả thuyết bất khả thuyết tam muội của Bồ Tát Phổ Hiền, nhậm vận du hí tự tại. Trụ nơi trí huệ sư tử phấn tấn, tâm ý đều không có sự chướng ngại.

Kỳ tâm hằng trụ thập Đại Pháp tạng. hà giả vi thập? Sở vị: trụ ức niệm nhất thiết chư Phật, trụ ức niệm nhất thiết Phật Pháp, trụ điều phục nhất thiết chúng sanh đại bi, trụ thị hiện bất tư nghị thanh tịnh quốc độ trí, trụ thâm nhập chư Phật cảnh giới quyết định giải, trụ khứ, lai, hiện tại nhất thiết Phật bình đẳng tướng Bồ-đề, trụ vô ngại Vô Trước tế, trụ nhất thiết pháp vô tướng tánh, trụ khứ, lai, hiện tại nhất thiết Phật bình đẳng thiện căn, trụ khứ, lai, hiện tại nhất thiết Như Lai Pháp giới vô sái biệt thân, ngữ, ý nghiệp tiên đạo trí, trụ quan sát tam thế nhất thiết chư Phật thọ sanh, xuất gia, nghệ đạo tràng, thành chánh giác, chuyển pháp luân, bát niết bàn tất nhập sát-na tế.
Tâm Bồ Tát thường trụ nơi mười đại pháp tạng. Những gì là mười? Đó là: Trụ vào sự nghĩ nhớ tất cả chư Phật. Trụ vào sự nghĩ nhớ tất cả Phật pháp. Trụ nơi đại bi điều phục tất cả chúng sinh. Trụ nơi trí huệ không nghĩ bàn thị hiện cõi nước thanh tịnh. Trụ nơi quyết định giải vào sâu cảnh giới của chư Phật.
Trụ nơi tướng bồ đề bình đẳng của tất cả chư Phật quá khứ vị lai hiện tại. Trụ nơi bờ mé không chướng ngại, không chấp trước. Trụ nơi tất cả pháp tánh vô tướng. Trụ nơi căn lành bình đẳng của tất cả chư Phật quá khứ vị lai hiện tại. Trụ nơi trí tiên đạo thân miệng ý pháp giới không khác biệt của tất cả Như Lai quá khứ, vị lai, hiện tại. Trụ vào sát na tế, quán sát tất cả chư Phật ba đời, thọ sinh, xuất gia, đến đạo tràng, thành Chánh Giác, chuyển pháp luân, vào Niết Bàn.
Giảng: Vị đại Bồ Tát này, tâm của Ngài thường trụ ở trong mười đại pháp tạng. Những gì là mười đại pháp tạng? Đó là:
1. Thường trụ nghĩ nhớ danh hiệu của tất cả mười phương chư Phật.
2. Thường trụ nghĩ nhớ pháp của tất cả mười phương chư Phật.
3. Thường trụ tâm đại bi, để điều phục tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
4. Thường trụ trí huệ thị hiện cõi nước thanh tịnh không thể nghĩ bàn.
5. Thường trụ quyết định giải vào sâu cảnh giới của tất cả chư Phật.
6. Thường trụ tướng bồ đề bình đẳng của tất cả chư Phật đời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại.
7. Thường trụ nơi bờ mé không chướng ngại, không chấp trước.
8. Thường trụ nơi tất cả pháp vô tánh, vô tướng.
9. Thường trụ nơi căn lành bình đẳng của tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.
10. Thường trụ nơi trí tiên đạo thân miệng ý, pháp giới không khác biệt của tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Hoàn toàn vào sát na tế, quán sát tất cả chư Phật ba đời, thọ sinh, xuất gia, đến đạo tràng, thành Chánh Giác, chuyển pháp luân, vào Niết Bàn.

Phật tử! thử thập Đại Pháp tạng quảng đại vô lượng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả thuyết, vô cùng tận, nan nhẫn thọ, nhất thiết thế trí vô năng xưng thuật.
Phật tử! Mười đại pháp tạng này rộng lớn vô lượng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả thuyết, vô cùng tận, khó nhẫn thọ. Tất cả trí huệ thế gian, không thể xưng tán tường thuật hết được.
Giảng: Các vị Phật tử! Mười đại pháp tạng này, rộng lớn vô lượng, bất khả số, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả thuyết, vô cùng tận, khó nhẫn thọ. Hết thảy tất cả trí huệ thế gian, không cách chi tán thán khen ngợi, tường thuật hết được.

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ đáo Phổ Hiền chư hạnh bỉ ngạn, chứng thanh tịnh Pháp, chí lực quảng đại, khai thị chúng sanh vô lượng thiện căn, tăng trưởng Bồ Tát nhất thiết thế lực, ư niệm niệm khoảnh mãn túc Bồ Tát nhất thiết công đức, thành tựu Bồ Tát nhất thiết chư hạnh, đắc nhất thiết Phật Đà-la-ni Pháp, thọ trì nhất thiết chư Phật sở thuyết; tuy thường an trụ chân như thật tế, nhi tùy nhất thiết thế tục ngôn thuyết, thị hiện điều phục nhất thiết chúng sanh.
Hà dĩ cố? Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, Pháp như thị cố.
Phật tử! Đại Bồ Tát này đã đến được bờ bên kia các hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền. Chứng được pháp thanh tịnh, chí lực rộng lớn. Khai thị chúng sinh vô lượng căn lành, tăng trưởng tất cả thế lực của Bồ Tát. Trong khoảng niệm niệm, đầy đủ tất cả công đức của Bồ Tát, thành tựu tất cả các hạnh của Bồ Tát, đắc được pháp đà la ni của tất cả chư Phật, thọ trì pháp của tất cả chư Phật nói. Tuy thường an trụ chân như thật tế, mà tuỳ thuận tất cả lời nói của thế tục, thị hiện điều phục tất cả chúng sinh.
Tại sao? Vì đại Bồ Tát trụ tam muội này, pháp như vậy.
Giảng: Các vị Phật tử! Vị đại Bồ Tát này, đã đến được bờ bên kia tất cả các hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu. Chứng được pháp thanh tịnh, chí lực rộng lớn vô biên. Khai thị tất cả chúng sinh, đắc được vô lượng căn lành, tăng trưởng tất cả oai đức thế lực của Bồ Tát tu. Trong khoảng mỗi một niệm, đầy đủ tất cả công đức của Bồ Tát tu, thành tựu hết thảy tất cả hạnh của Bồ Tát, đắc được pháp đà la ni của tất cả chư Phật, thọ trì pháp của tất cả chư Phật nói. Tuy thường an trụ ở trong chân như thật tế, mà có thể tuỳ thuận tất cả lời nói của thế tục. Thị hiện điều phục tất cả chúng sinh cang cường.
Tại sao? Vì khi đại Bồ Tát trụ nơi tam muội Vô ngại luân, cho nên pháp như vậy.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ thử tam muội, đắc nhất thiết Phật quảng đại trí, đắc xảo thuyết nhất thiết quảng đại pháp tự tại biện tài, đắc nhất thiết thế trung tối vi thù thắng thanh tịnh vô úy Pháp, đắc nhập nhất thiết tam muội trí, đắc nhất thiết Bồ Tát thiện xảo phương tiện, đắc nhất thiết pháp quang minh môn, đáo an uý nhất thiết thế gian Pháp bỉ ngạn, tri nhất thiết chúng sanh thời, phi thời, chiếu thập phương thế giới nhất thiết xứ, lệnh nhất thiết chúng sanh đắc thắng trí, tác nhất thiết thế gian vô thượng sư, an trụ nhất thiết chư công đức, khai thị nhất thiết chúng sanh thanh tịnh tam muội, lệnh nhập tối thượng trí. Hà dĩ cố?
Phật tử! Đại Bồ Tát nhờ tam muội này, mà đắc được trí rộng lớn của tất cả chư Phật. Được biện tài tự tại khéo nói tất cả pháp rộng lớn. Được pháp vô uý thanh tịnh thù thắng nhất trong tất cả thế gian. Được trí huệ vào tất cả tam muội. Được phương tiện khéo léo của tất cả Bồ Tát. Được môn quang minh của tất cả các pháp. Đến được bờ bên kia an ổn tất cả thế gian pháp. Biết tất cả chúng sinh thời, phi thời. Chiếu mười phương thế giới tất cả mọi nơi, khiến cho tất cả chúng sinh được thắng trí. Làm Vô thượng sư của tất cả thế gian, an trụ nơi tất cả các công đức, khai thị cho tất cả chúng sinh tam muội thanh tịnh, khiến cho họ vào trí huệ tối thượng. Tại sao?
Giảng: Các vị Phật tử! Đại Bồ Tát nhờ trụ vào tam muội này, mà đắc được mười thứ cảnh giới. Những gì là mười?
1. Đắc được hết thảy trí huệ rộng lớn của tất cả chư Phật.
2. Đắc được phương tiện khéo léo, biện tài vô ngại nhậm vận tự tại, để nói tất cả Phật pháp rộng lớn.
3. Đắc được pháp vô uý thanh tịnh thù thắng nhất trong tất cả thế gian.
4. Đắc được trí huệ vào tất cả tam muội.
5. Đắc được pháp môn có đủ phương tiện khéo léo của tất cả Bồ Tát.
6. Đắc được môn quang minh của tất cả các pháp.
7. Đến được bờ bên kia an ổn tất cả thế gian pháp.
8. Biết tất cả chúng sinh thời, phi thời.
9. Chiếu mười phương thế giới tất cả mọi nơi, khiến cho tất cả chúng sinh được trí huệ thù thắng.
10. Làm vô thượng sư của tất cả thế gian, an trụ nơi tất cả các công đức, khai thị cho tất cả chúng sinh đắc được tam muội thanh tịnh, khiến cho họ vào trí huệ tối thượng. Tại sao?

Bồ-Tát Ma-ha-tát như thị tu hành, tức lợi ích chúng sanh, tức tăng trường đại bi, tức thân cận thiện tri thức, tức kiến nhất thiết Phật, tức liễu nhất thiết pháp, tức nghệ nhất thiết sát, tức nhập nhất thiết phương, tức nhập nhất thiết thế, tức ngộ nhất thiết pháp bình đẳng tánh, tức tri nhất thiết Phật bình đẳng tánh, tức trụ nhất thiết trí bình đẳng tánh.
Vì đại Bồ Tát tu hành như vậy, thì lợi ích chúng sinh, tăng trưởng đại bi, gần gũi thiện tri thức, thấy được tất cả chư Phật, thấu rõ tất cả các pháp, đến được tất cả cõi Phật, vào được tất cả phương, vào tất cả thế gian, ngộ tất cả pháp tánh bình đẳng, biết tất cả chư Phật tánh bình đẳng, trụ nhất thiết trí tánh bình đẳng.
Giảng: Đại Bồ Tát tu hành tất cả Bồ Tát đạo như vậy, thì có mười thứ cảnh giới, những gì là mười? Đó là:
1. Hay lợi ích tất cả chúng sinh.
2. Hay tăng trưởng đại bi.
3. Hay gần gũi thiện tri thức.
4. Hay thấy được tất cả chư Phật.
5. Hay thấu rõ tất cả Phật pháp.
6. Hay đến được tất cả cõi nước chư Phật.
7. Hay vào tất cả địa phương.
8. Hay vào tất cả thế gian.
9. Hay ngộ tánh bình đẳng của tất cả pháp.
10. Hay biết tánh bình đẳng của tất cả chư Phật, thì trụ nhất thiết trí tánh bình đẳng.

Ư thử Pháp trung, tác như thị nghiệp, bất tác dư nghiệp; trụ vị túc tâm, trụ bất tán loạn tâm, trụ chuyên nhất tâm, trụ cần tu tâm, trụ quyết định tâm, trụ bất biến dị tâm; như thị tư duy, như thị tác nghiệp, như thị cứu cánh.
Ở trong pháp đó, tạo nghiệp như vậy, chẳng tạo nghiệp khác. Trụ tâm chưa đủ, trụ tâm chẳng tán loạn, trụ tâm chuyên nhất, trụ tâm siêng tu, trụ tâm quyết định, trụ tâm chẳng biến đổi. Tư duy như vậy, tạo nghiệp như vậy, rốt ráo như vậy.
Giảng: Ở trong pháp đó, tạo nghiệp thanh tịnh, chẳng tạo nghiệp nhiễm ô. Trụ tâm vì pháp chưa đầy đủ, trụ tâm chẳng tán loạn, trụ tâm chuyên nhất, trụ tâm siêng tu hành, trụ tâm quyết định, trụ tâm chẳng biến đổi. Bồ Tát tư duy như vậy, tạo nghiệp như vậy, rốt ráo như vậy, tức cũng là pháp môn tu hành, đều làm đến cực điểm.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát vô dị ngữ, dị tác, hữu như ngữ, như tác. Hà dĩ cố?
Phật tử! Đại Bồ Tát không nói khác, làm khác, mà nói như thật, làm thật. Tại sao?
Giảng: Các vị Phật tử! Đại Bồ Tát chẳng nói hai lời, chẳng làm hai dạng. Những lời nói ra, đều như pháp, việc làm đều hợp pháp. Đây là nguyên nhân gì? Ở dưới đây có đưa ra mười ví dụ để nói rõ.
1. Ví dụ kim cang bất hoại.
2. Ví dụ sắc đẹp vàng thật.
3. Ví dụ ánh sáng mặt trời.
4. Ví dụ bốn ngọn núi Tu Di.
5. Ví dụ đại địa giữ gìn.
6. Ví dụ biển cả chứa nước.
7. Ví dụ tướng quân khai chiến.
8. Ví dụ luân vương hộ đời.
9. Ví dụ cây trồng lớn lên.
10. Khi mưa sinh giống.

Thí như Kim cương, dĩ ất khả hoại nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời ly ư bất hoại; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ chư hạnh Pháp nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời ly chư hạnh Pháp.
Ví như kim cang, nhờ không thể hoại mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi sự bất hoại. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ tu hành các pháp mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi tu hành các pháp.
Giảng: Giống như kim cang, ví nó kiên cố, không dễ gì phá hoại, cho nên được tên là kim cang, trọn không khi nào phá hoại được. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì tu lục độ vạn hạnh, mà được tên là Bồ Tát, trọn không khi nào lìa khỏi lục độ vạn hạnh.

Thí như chân kim, dĩ hữu diệu sắc nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời ly ư diệu sắc; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ chư thiện nghiệp nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời ly chư thiện nghiệp.
Ví như vàng thật, nhờ có màu sắc đẹp mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi màu sắc đẹp. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ các nghiệp lành mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi các nghiệp lành.
Giảng: Giống như vàng thật, nhờ màu sắc đẹp của nó mà khiến cho mọi người ưa thích, cho nên được tên là vàng thật, trọn không khi nào lìa khỏi màu sắc đẹp. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì làm tất cả nghiệp lành, để lợi ích tất cả chúng sinh, cho nên được tên là Bồ Tát, trọn không khi nào lìa khỏi tất cả nghiệp lành.

Thí như Nhật Thiên tử, dĩ quang minh luân nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời ly quang minh luân; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ trí tuệ quang nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời ly trí tuệ quang.
Ví như mặt trời, nhờ ánh sáng mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi ánh sáng. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ trí huệ quang minh mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi trí huệ quang minh.
Giảng: Giống như mặt trời, nhờ có ánh sáng chiếu khắp thế gian, khiến cho tất cả đều được lợi ích, cho nên gọi là mặt trời, trọn không khi nào lìa khỏi ánh sáng. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vì có trí huệ quang minh, cho nên được tên Bồ Tát, trọn không khi nào lìa khỏi trí huệ quang minh.

Thí như Tu Di Sơn Vương, dĩ tứ bảo phong xứ ư đại hải, huýnh nhiên cao xuất nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời xả ly tứ phong; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ chư thiện căn xứ tại ư thế, huýnh nhiên cao xuất nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời xả ly thiện căn.
Ví như núi chúa Tu Di, nhờ bốn ngọn núi báu, ở tại biển cả, cao lớn sừng sững mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi bốn ngọn núi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ các căn lành, ở tại thế gian, cao lớn vòi vọi mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi căn lành.
Giảng: Giống như núi chúa Tu Di, có bốn ngọn núi báu, ở giữa biển cả, cao lớn sừng sững mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi bốn ngọn núi. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ các căn lành, ở tại thế gian, cao lớn vòi vọi hơn tất cả chúng sinh, mà được tên Bồ Tát, trọn không khi nào lìa khỏi tất cả căn lành.

Thí như Đại địa, dĩ trì nhất thiết nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời xả ly năng trì; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ độ nhất thiết nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời xả ly đại bi.
Ví như đại địa, nhờ giữ gìn tất cả vạn vật mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi năng giữ. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ độ tất cả mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi đại bi.
Giảng: Giống như đại địa, nhờ giữ gìn tất cả vạn vật, mà được tên là đại địa, trọn không khi nào lìa khỏi năng giữ. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ độ thoát tất cả chúng sinh, cho nên được tên là Bồ Tát, trọn không khi nào lìa khỏi tâm đại bi.

Thí như đại hải, dĩ hàm chúng thủy nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời xả ly ư thủy; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ chư đại nguyện nhi đắc kỳ danh, chung bất tạm xả độ chúng sanh nguyện.
Ví như biển cả, nhờ chứa các dòng nước mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi nước. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ các đại nguyện mà được tên, trọn không khi nào tạm lìa khỏi nguyện độ chúng sinh.
Giảng: Giống như biển cả, vì nó dung chứa tất cả các dòng nước, cho nên được tên là biển cả, trọn không khi nào lìa khỏi nước. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ tất cả các đại nguyện cứu chúng sinh thọ khổ, cho nên được tên Bồ Tát, trọn không khi nào tạm lìa khỏi nguyện độ chúng sinh.

Thí như quân tướng, dĩ năng quán tập chiến đấu chi Pháp nhi đắc kỳ danh, chung vô hữu thời xả ly thử năng; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, dĩ năng quán tập như thị tam muội nhi đắc kỳ danh, nãi chí thành tựu nhất thiết trí trí, chung vô hữu thời xả ly thử hạnh.
Ví như tướng quân, nhờ giỏi tập luyện phương pháp chiến đấu mà được tên, trọn không khi nào lìa khỏi tài năng này. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ giỏi tu tập tam muội như vậy mà được tên, cho đến thành tựu trí huệ nhất thiết trí, trọn không khi nào lìa khỏi hạnh này.
Giảng: Giống như tướng quân, ở trong trận mạc, quyết thắng ngoài ngàn dặm, đều thắng lợi, đi đến đâu thắng đến đó, bách chiến bách thắng. Hiểu rõ thao lược tôn tử binh pháp. Vì thích chiến đấu, cho nên được tên là đại tướng quân, trọn không khi nào lìa khỏi khoa sự như thần, chưa bói đã biết trước. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, nhờ giỏi tu tập tam muội như vậy mà được tên Bồ Tát, cho đến thành tựu trí huệ nhất thiết trí, trọn không khi nào lìa khỏi từ bi hỉ xả bốn tâm vô lượng.

Như Chuyển luân Vương, ngự tứ thiên hạ, thường cần thủ hộ nhất thiết chúng sanh, lệnh vô hoạnh tử, hằng thọ khoái lạc; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, nhập như thị đẳng chư Đại tam muội, thường cần hóa độ nhất thiết chúng sanh, nãi chí lệnh kỳ cứu cánh thanh tịnh.
Ví như Chuyển Luân Vương, thống trị bốn thiên hạ, thường siêng bảo hộ tất cả chúng sinh, khiến cho không hoạnh tử, luôn được an lạc. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vào các đại tam muội như thế, thường siêng hoá độ tất cả chúng sinh, cho đến khiến cho họ rốt ráo được thanh tịnh.
Giảng: Giống như Chuyển Luân Thánh Vương, thống trị bốn thiên hạ, thường siêng bảo hộ tất cả chúng sinh, khiến cho hết thảy chúng sinh không có tai nạn hoạnh tử, luôn luôn được an lạc vô tỉ. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vào các đại tam muội như thế, thường siêng giáo hoá độ thoát tất cả chúng sinh, cho đến khiến cho tất cả chúng sinh, rốt ráo được thanh tịnh.

Thí như chủng tử, thực chi ư địa, nãi chí năng lệnh hành diệp tăng trưởng; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, tu Phổ Hiền hạnh, nãi chí năng lệnh nhất thiết chúng sanh thiện Pháp tăng trưởng.
Ví như hạt giống gieo trồng xuống đất, cho đến hay làm cho cành lá lớn lên. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tu hạnh Phổ Hiền, cho đến hay khiến cho tất cả chúng sinh tăng trưởng pháp lành.
Giảng: Giống như hạt giống gieo trồng xuống đất, cho đến hay làm cho nảy mầm, sinh rễ, ra cành lá lớn lên, nở hoa, kết trái, lớn lên dần dần mà thành thục. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tu hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu, cho đến hay khiến cho tất cả chúng sinh, ngày càng tăng trưởng hết thảy pháp lành.

Thí như đại vân, ư hạ thử nguyệt hàng tuôn Đại vũ, nãi chí tăng trưởng nhất thiết chủng tử; Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, nhập như thị đẳng chư Đại tam muội, tu Bồ Tát hạnh, vũ đại pháp vũ, nãi chí năng lệnh nhất thiết chúng sanh cứu cánh thanh tịnh, cứu cánh Niết Bàn, cứu cánh an ổn, cứu cánh bỉ ngạn, cứu cánh hoan hỉ, cứu cánh đoạn nghi, vi chư chúng sanh cứu cánh phước điền, lệnh kỳ thí nghiệp giai đắc thanh tịnh, lệnh kỳ giai trụ Bất-thoái-chuyển đạo, lệnh kỳ đồng đắc nhất thiết trí trí, lệnh kỳ giai đắc xuất ly tam giới, lệnh kỳ giai đắc cứu cánh chi trí, lệnh kỳ giai đắc chư Phật Như Lai cứu cánh chi Pháp, trí chư chúng sanh nhất thiết trí xứ. Hà dĩ cố?
Ví như mây lớn, tháng mùa hè nóng nực, đổ mưa lớn xuống, cho đến tăng trưởng tất cả hạt giống. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vào các đại tam muội như vậy, tu hạnh Bồ Tát, mưa đại pháp vũ. Cho đến hay khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo được thanh tịnh. Rốt ráo được Niết Bàn. Rốt ráo được an ổn. Rốt ráo đến bờ bên kia. Rốt ráo hoan hỉ. Rốt ráo dứt nghi.
Vì các chúng sinh làm ruộng phước rốt ráo. Khiến cho nghiệp bố thí của họ đều được thanh tịnh. Khiến cho họ đều trụ đạo bất thối chuyển. Khiến cho họ đồng được trí nhất thiết trí. Khiến cho họ đều được thoát khỏi ba cõi. Khiến cho họ đều được trí rốt ráo. Khiến cho họ đều được pháp rốt ráo của chư Phật Như Lai. Đặt để chúng sinh nơi nhất thiết trí. Tại sao?
Giảng: Giống như mây lớn, tháng mùa hè nóng nực, thường đổ mưa lớn xuống, cho đến tăng trưởng tất cả hạt giống. Đại Bồ Tát cũng lại như thế, vào các đại tam muội như vậy, tu hạnh của Bồ Tát tu, mưa đại pháp vũ, đánh trống pháp lớn, thổi loa pháp lớn, chuyển đại pháp luân, giáo hoá tất cả chúng sinh.
Cho đến hay khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo đắc được pháp thanh tịnh, lìa khỏi pháp nhiễm ô, tức cũng là đắc được giới định huệ ba học, lìa khỏi tham sân si ba độc, khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo được Niết Bàn, tức cũng là không sinh không diệt, đắc được thường, lạc, ngã, tịnh, bốn đức. Khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo được an ổn, chẳng có mọi phiền não. Khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo đến được bờ bên kia, chẳng còn thọ khổ trong luân hồi. Khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo được hoan hỉ. Khiến cho tất cả chúng sinh rốt ráo dứt được nghi.
Bồ Tát vì hết thảy chúng sinh làm ruộng phước rốt ráo, khiến cho tất cả chúng sinh chẳng chấp tướng bố thí, chẳng chấp tướng thọ, đều được thanh tịnh. Khiến cho tất cả chúng sinh đều trụ nơi giác đạo A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Khiến cho tất cả chúng sinh đồng được trí nhất thiết trí. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được thoát khỏi nhà lửa ba cõi. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được trí huệ rốt ráo. Khiến cho tất cả chúng sinh đều được pháp yếu rốt ráo của chư Phật. Đặt để chúng sinh nơi nhất thiết trí. Tại sao phải như vậy?

Bồ-Tát Ma-ha-tát thành tựu thử pháp, trí tuệ minh liễu, nhập Pháp giới môn, năng tịnh Bồ Tát bất khả tư nghị vô lượng chư hạnh. Sở vị: năng tịnh chư trí, cầu nhất thiết trí cố; năng tịnh chúng sanh, sử điều phục cố; năng tịnh sát độ, thường hồi hướng cố; năng tịnh chư Pháp, phổ liễu tri cố; năng tịnh vô úy, vô khiếp nhược cố; năng tịnh vô ngại biện, xảo diễn thuyết cố; năng tịnh Đà-la-ni, ư nhất thiết Pháp đắc tự tại cố; năng tịnh thân cận hạnh, thường kiến nhất thiết Phật hưng thế cố.
Vì đại Bồ Tát thành tựu pháp này, trí huệ sáng tỏ, mà vào môn pháp giới, hay thanh tịnh vô lượng các hạnh không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Đó là:
Hay tịnh các trí, vì cầu nhất thiết trí. Hay tịnh chúng sinh, vì khiến cho điều phục. Hay tịnh cõi nước, vì thường hồi hướng. Hay tịnh các pháp, vì khắp biết rõ. Hay tịnh chẳng sợ, vì chẳng khiếp sợ. Hay tịnh vô ngại biện, vì khéo diễn nói. Hay tịnh đà la ni, vì nơi tất cả pháp được tự tại. Hay tịnh hạnh gần gũi, vì thường thấy tất cả chư Phật ra đời.
Giảng: Vì đại Bồ Tát thành tựu pháp này, trí huệ đã sáng tỏ, mà vào môn pháp giới, cho nên hay thanh tịnh vô lượng các hạnh không thể nghĩ bàn của Bồ Tát. Đó là: Hay thanh tịnh nhất thiết trí, vì cầu được nhất thiết trí huệ. Hay thanh tịnh tất cả chúng sinh, vì khiến cho chúng sinh cang cường bị điều phục. Hay tịnh tất cả cõi nước, vì thường hồi hướng công đức, cầu trang nghiêm cõi nước thanh tịnh. Hay thanh tịnh tất cả các pháp, vì khắp biết rõ. Hay thanh tịnh không sợ, vì có đức hạnh, cho nên chẳng khiếp sợ. Hay thanh tịnh vô ngại biện, vì khéo léo diễn nói tất cả các pháp. Hay thanh tịnh đà la ni, vì trong tất cả pháp được tự tại. Hay thanh tịnh hạnh gần gũi chư Phật, vì thường thấy tất cả chư Phật xuất hiện ra đời.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, đắc như thị đẳng bách thiên ức na-do-tha bất khả thuyết bất khả thuyết thanh tịnh công đức, ư như thị đẳng tam muội cảnh giới đắc tự tại cố, nhất thiết chư Phật sở gia bị cố, tự thiện căn lực chi sở lưu cố, nhập trí tuệ địa đại uy lực cố, chư thiện tri thức dẫn đạo lực cố, tồi phục nhất thiết chư ma lực cố, đồng phần thiện căn thuần tịnh lực cố, quảng đại thệ nguyện dục lạc lực cố, sở chủng thiện căn thành tựu lực cố, siêu chư thế gian vô tận chi phước, vô đối lực cố.
Phật tử! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, đắc được trăm ngàn ức Na do tha bất khả thuyết bất khả thuyết, công đức thanh tịnh như vậy. Vì trong các cảnh giới tam muội như vậy được tự tại. Vì được tất cả chư Phật gia bị. Vì nhờ sức căn lành của mình mà ra. Vì vào bậc trí huệ đại oai lực. Vì nhờ sức các thiện tri thức dẫn đường. Vì sức hàng phục tất cả các ma. Vì sức đồng phận căn lành thuần tịnh. Vì sức thệ nguyện ưa thích rộng lớn. Vì sức trồng căn lành thành tựu. Vì sức vô đối của phước vô tận vượt qua các thế gian.
Giảng: Các vị Phật tử! Khi đại Bồ Tát trụ tam muội vô ngại luân, đắc được trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết bất khả thuyết công đức thanh tịnh như vậy.
Bồ Tát đối với tam muội này, đắc được mười thứ lực. Những gì là mười?
1. Vì đắc được cảnh giới tam muội nhậm vận tự tại.
2. Vì được tất cả chư Phật gia bị.
3. Vì nhờ sức căn lành thuở xưa của mình mà ra.
4. Vì vào bậc trí huệ có đại oai lực.
5. Vì nhờ sức các thiện tri thức dẫn đường.
6. Vì sức hàng phục tất cả các ma.
7. Vì sức đồng phận căn lành thuần tịnh.
8. Vì sức thệ nguyện ưa thích rộng lớn.
9. Vì sức trồng căn lành thành tựu.
10. Vì sức vô đối của phước vô tận vượt qua các thế gian.

Bồ Tát phát bốn hoằng thệ nguyện:
“Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.
Chúng ta là người học Phật pháp, cũng phải phát bốn đại nguyện này, mỗi ngày phải y chiếu bốn đại nguyện này mà thực hành, thì mới có sự tiến bộ. Bằng không, miệng đọc thuộc làu, nhưng chẳng thực hành, thì chẳng có chút ích lợi gì. Chẳng những không thể độ chúng sinh, mà cho đến chính mình cũng cứu không được. Nay giải thích sơ lược bốn đại nguyện này:
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ: Trước hết phải hồi quang phản chiếu, tự mình hỏi mình, độ được chúng sinh chưa? Nếu có độ chúng sinh, nhưng đừng có chấp trước vào tướng chúng sinh. Trong Kinh Kim Cang có nói:
“Tôi phải diệt độ tất cả chúng sinh
Diệt độ tất cả chúng sinh rồi,
Mà không có một chúng sinh thật được diệt độ”.

Ý nghĩa này dạy mọi người đừng chấp trước vào công đức của mình, đừng chấp trước vào tướng độ chúng sinh, do đó: “Độ sinh lìa tướng, lìa tướng độ sinh”.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn: Trước hết phải phản tỉnh, nhìn xem phiền não của mình đã dứt chưa? Hiện nay nói thật với các vị, phiền não của tôi cũng chưa dứt, nhưng muốn dứt phiền não. Nói ra thật là xấu hổ, giảng kinh nhiều năm rồi, mà vô minh vẫn chưa phá, phiền não vẫn chưa dứt, thật có lỗi các vị, cho nên phiền não của các vị cũng rất nhiều.
Song, tôi sớm đã từng nói với các vị: “Tôi muốn hoá duyên với các vị, muốn hoá duyên lớn, chẳng hoá duyên nhỏ”. Thế nào là duyên lớn? Tức là không hình không tướng. Thế nào là duyên nhỏ? Nghĩa là có hình có tướng. Nóng giận phiền não là không hình không tướng; tiền bạc châu báu là có hình có tướng. Mười mấy năm trước tôi đã từng nói qua: “Hãy đem nóng giận phiền não của quý vị, bố thí hết cho tôi”. Tôi hoan hỉ phiền não, tôi muốn ăn cơm phiền não, tôi muốn mặc y phiền não, tôi muốn ở nhà phiền não, tôi muốn ngồi toà phiền não, nhưng các vị không để ý đến, không bố thí bỏ được, vẫn giữ lại để chính mình dùng. Bất cứ xuất gia bao nhiêu năm? Nếu không bố thí phiền não, thì vĩnh viễn không thể chứng đạo.
Làm thế nào không có phiền não? Thì phải xem tất cả chúng sinh đều là Phật. Nếu trực tiếp đối với tất cả chúng sinh sinh phiền não, cũng giống như gián tiếp đối với tất cả chư Phật mà sinh phiền não. Chúng ta là đệ tử của Phật, không thể đối với Phật sinh phiền não, cho nên phải dứt trừ phiền não.
Người nào không chịu bố thí phiền não? Đó là người ngu. Người có trí huệ, thì không có phiền não. Tôi thường nói:
“Mọi việc đều đi qua
Nóng giận khó hoá giải
Thật không sinh nóng giận
Tức được báu vô giá.
Lại đừng có oán người
Mọi việc đều tốt đẹp
Phiền não vĩnh không sinh
Oan nghiệt biết đâu tìm!
Thường nhìn người không đúng
Khổ của mình chẳng dứt”.
Mấy câu này đã nói với quý vị nhiều lần, nhưng các vị coi như gió thoảng qua tai, chẳng lưu lại trong tâm, nói xong quên mất, qua rồi không nhớ nữa.
Tại sao hay có phiền não? Vì có nghiệp chướng, có oan nghiệt. Trong vô lượng kiếp đến nay, giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hoà hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu – phạm tội ngũ nghịch. Tóm lại, phàm là ở trong Tăng đoàn, đâm thọc ly gián, nói thị nói phi, khiến cho Tỳ Kheo nghi ngờ, thậm chí tạo ra đủ thứ việc không tốt, đó là phá hoà hợp tăng. Nếu phá hoại quy cụ trong đạo tràng, khiến cho đạo tràng không được an ổn, tạo ra nhiều việc phiền não, đó là làm thân Phật chảy máu. Tạo năm tội ngũ nghịch này, nghĩ muốn tu hành, thì những tội nghiệt này tìm đến nhiễu loạn, khiến cho bạn không thể tĩnh tâm tu hành, vọng tưởng lung tung, phiền não trùng trùng.
Người có bệnh hoạn, là vì có nghiệp chướng, oan nghiệt đến tác quái, khiến cho tinh thần của bạn hoảng hốt, không tự làm chủ được. Phàm là người mạnh khoẻ, là do chẳng tạo oan nghiệt.
Vì trong quá khứ chúng ta chẳng giữ năm giới, chẳng làm mười điều lành, cho nên chẳng có căn lành. Đời này muốn phát bồ đề tâm, nhưng ma lại đến nhiễu loạn. Vậy, phải làm bằng cách nào? Hãy mau sám hối sửa lỗi làm con người mới, tâm bình khí hoà, sửa lỗi triệt để, làm mới triệt để. Nên nhớ! Không thể nửa sửa, nửa không sửa, đó là hành vi gạt chính mình. Tu hành phải chân đạp xuống đất, không thể xen tạp thành phần hư nguỵ ở trong tâm. Tu đạo tức là tu thành thật, do đó: “Tâm thành tức linh”, tâm thành đến cực điểm thì sẽ có cảm ứng. Nhà Nho có nói: “Tinh thành sở chí, kim thạch vi khai”.
Chúng ta lúc nào cũng phải kiểm thảo chính mình, xem thử phiền não đã dứt chưa? Nếu chưa dứt thì sớm dứt trừ, còn nếu đã dứt thì đừng để nó sinh ra nữa. Phiền não là thứ tệ nhất, phiền thân não tâm, là đá buộc chân người tu đạo.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học: Mỗi ngày các vị đến nghe kinh, nghiên cứu Phật pháp, song danh tướng cũng không nhớ.
– Hỏi: Thế nào là tứ niệm xứ? Tôi không biết.
– Hỏi: Thế nào là ngũ căn? Có phải hôm qua tôi đốt hương ngũ căn chăng?
– Hỏi: Thế nào là lục độ? Con người của tôi chẳng có sáu cái bụng!
– Hỏi: Thế nào là bát chánh đạo? Đại khái là tám con đường!
– Hỏi: Thế nào là thập lực? Có phải là mười sức lực chăng!
– Lại hỏi: Thế nào là mười tám pháp bất cộng? Lại không biết. Một hỏi ba không biết, đến học Phật pháp như vậy có tiến bộ chăng!
Pháp môn thì vô lượng, thử hỏi mình học chưa? Nếu chưa học, thì hãy mau học. Nếu đã học rồi, thì càng phải học cho nhiều. Phải dũng mãnh tinh tấn, siêng học Phật pháp, thì tương lai có thể trợ giúp Phật hoằng pháp, hoàn thành nhiệm vụ là Phật giáo đồ. Bằng không, “Thư đáo dụng thời phương hận thiếu”, đến lúc dùng, hậu hối cũng không kịp. “Sự phi kinh quá bất tri nan”. Nghe người ta giảng kinh thuyết pháp, cảm thấy rất dễ dàng. Song, khi mình giảng thì mới biết mùi vị của nó chẳng đơn giản, phải trải qua một phen công phu khổ cực, thì mới được thắng lợi, không thể làm á dương tăng.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành: Lời nguyện này phải nương vào công phu thật để thành tựu, chẳng phải nói suông, mà là thực hành. Nói mà làm không được, thì vĩnh viễn không thể thành đạo. Tự mình hỏi mình Phật đạo đã thành chưa? Nếu chưa thành, thì hãy mau y pháp tu hành, tương lai nhất định sẽ thành Phật đạo.
Bốn hoằng thệ nguyện này, các vị phải ghi nhớ mà thực hành, đừng cô phụ mục đích mỗi ngày đến nghe kinh. Nghe kinh là vì khai ngộ, khai ngộ mới có thể thành Phật, cho nên nói Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát trụ thử tam muội, đắc thập chủng Pháp, đồng khứ, lai, kim nhất thiết chư Phật. hà giả vi thập? Sở vị: đắc chư tướng hảo, chủng chủng trang nghiêm, đồng ư chư Phật; năng phóng thanh tịnh đại quang minh võng, đồng ư chư Phật; thần thông biến hóa, điều phục chúng sanh, đồng ư chư Phật; vô biên sắc thân, thanh tịnh viên âm, đồng ư chư Phật; tùy chúng sanh nghiệp hiện tịnh Phật quốc, đồng ư chư Phật; nhất thiết chúng sanh sở hữu ngữ ngôn giai năng nhiếp trì, bất vong bất thất, đồng ư chư Phật; vô tận biện tài tùy chúng sanh tâm nhi chuyển pháp luân lệnh sanh trí tuệ, đồng ư chư Phật; Đại sư tử hống vô sở khiếp úy, dĩ vô lượng Pháp khai ngộ quần sanh, đồng ư chư Phật; ư nhất niệm khoảnh, dĩ đại thần thông phổ nhập tam thế, đồng ư chư Phật; phổ năng hiển thị nhất thiết chúng sanh chư Phật trang nghiêm, chư Phật uy lực, chư Phật cảnh giới, đồng ư chư Phật.
Phật tử! Đại Bồ Tát trụ tam muội này, được mười pháp, đồng với tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Những gì là mười?
Đó là: Được các tướng tốt đủ thứ sự trang nghiêm, đồng với chư Phật. Hay phóng lưới đại quang minh thanh tịnh, đồng với chư Phật. Thần thông biến hoá điều phục chúng sinh, đồng với chư Phật. Vô biên sắc thân thanh tịnh viên âm, đồng với chư Phật. Tuỳ chúng sinh nghiệp, hiện tịnh cõi Phật, đồng với chư Phật.
Hết thảy lời lẽ của tất cả chúng sinh, đều nhiếp trì được không quên, không mất, đồng với chư Phật. Vô tận biện tài, tuỳ tâm chúng sinh mà chuyển pháp luân, khiến cho sinh trí huệ, đồng với chư Phật. Đại sư tử hống, không khiếp sợ, dùng vô lượng pháp, khai ngộ quần sinh, đồng với chư Phật.
Trong khoảng một niệm, dùng đại thần thông vào khắp ba đời, đồng với chư Phật. Khắp hiển bày cho tất cả chúng sinh biết, sự trang nghiêm của chư Phật, oai lực của chư Phật, cảnh giới của chư Phật, đồng với chư Phật.
Giảng: Các vị Phật tử! Khi đại Bồ Tát trụ tam muội vô ngại luân, đắc được mười pháp, đồng với tất cả chư Phật đời quá khứ, đời vị lai, đời hiện tại. Những gì là mười? Đó là:
1. Bồ Tát đắc được 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, đủ thứ sự trang nghiêm, đồng với chư Phật.
2. Bồ Tát hay phóng lưới đại quang minh thanh tịnh ở trong hư không, đồng với chư Phật.
3. Bồ Tát dùng thần thông biến hoá để điều phục tất cả chúng sinh, đồng với chư Phật.
4. Bồ Tát có vô biên sắc thân và viên âm thanh tịnh, đồng với chư Phật. Phật có tám âm:
a. Âm cực tốt.
b. Âm nhẹ nhàng.
c. Âm hài hoà.
d. Âm êm tai.
e. Âm chẳng phải người nữ.
f. Âm chẳng lầm.
g. Âm sâu xa.
h. Âm chẳng hết được.

5. Bồ Tát tuỳ nghiệp của chúng sinh tạo ra, mà hiện cõi Phật thanh tịnh, đồng với chư Phật.
6. Bồ Tát đối với hết thảy lời lẽ của tất cả chúng sinh, như phi cầm có lời lẽ của phi cầm, tẩu thú có lời lẽ của tẩu thú, cá rùa có lời lẽ của cá rùa, côn trùng có lời lẽ của côn trùng. Tóm lại, phi tiềm động thực, đều có lời lẽ của chúng. Tất cả lời lẽ Bồ Tát đều nhiếp trì, không quên không mất, đồng với chư Phật.
7. Biện tài của Bồ Tát như nước sông lớn chảy, thao thao bất tuyệt, chẳng có khi nào cùng tận. Bồ Tát có trí huệ phương tiện khéo léo, tuỳ thuận tâm niệm của chúng sinh, mà thường chuyển đại pháp luân, khiến cho chúng sinh đắc được trí huệ, đồng với chư Phật.
8. Bồ Tát có oai lực của đại sư tử hống, trong Chứng Đạo Ca có nói :

“Sư tử hống, vô uý thuyết.
Bách thú văn chi giai não liệt,
Hương tượng bôn ba thất cước uy,
Thiên long tịch thính sinh hân duyệt”,

Chẳng có khi nào khiếp sợ. Dùng vô lượng pháp môn, để khai ngộ tất cả chúng sinh, khiến cho chúng sinh bỏ mê về giác, bỏ tà theo chánh, thân tâm kiện khang, tư tưởng thuần chánh, đồng với chư Phật.
9. Bồ Tát trong khoảng một niệm, dùng đại oai thần thông lực vào khắp cảnh giới ba đời vô ngại, đồng với chư Phật. Có thể đem ba đời dời đi, đời quá khứ tuy đã quá khứ, song có thể dời đến hiện tại. Hiện tại tuy không ngừng, song có thể dời đến vị lai. Đời vị lai tuy chưa đến, song có thể dời về quá khứ. Lý luận cảnh giới này là của bậc trí, người thế tục khó mà tin được. Tại sao ? Vì sự chấp trước của người thế tục quá sâu, cho rằng quá khứ tức là quá khứ, hiện tại tức là hiện tại, vị lai tức là vị lai. Làm sao mà dời đổi được ? Làm đảo lộn thời gian, đâu có lý này !
Người thế tục không hiểu được đạo lý ba đời vô ngại. Thật ra mà nói, vốn chẳng có quá khứ, chẳng có vị lai, chẳng có hiện tại. Bất quá, tâm chấp trước của chúng sinh khởi phân biệt mà thôi. Ở trong đại viên cảnh trí của chư Phật, ba đời không phân biệt. Ở trong thức A lại da của chúng sinh, ba đời có sự phân biệt. Cho nên, trong Kinh Kim Cang nói :
“Tâm quá khứ bất khả đắc
Tâm hiện tại bất khả đắc
Tâm vị lai bất khả đắc”.

Đó là đạo lý thấu rõ ba tâm bất khả đắc, tức cũng là dạy con người đừng chấp trước, đừng có tâm phân biệt. Phải có tư tưởng viên dung vô ngại. Do đó : “Dọc bao thái hư, ngang khắp sa giới”, phóng tâm lượng rộng lớn.
10. Bồ Tát khắp hiển bày cho tất cả chúng sinh, biết sự trang nghiêm của chư Phật, oai lực của chư Phật, cảnh giới của chư Phật, tất cả tất cả đồng với chư Phật, chẳng có gì khác biệt.

Nhĩ thời, Phổ nhãn Bồ Tát bạch Phổ Hiền Bồ Tát ngôn: Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát đắc như thị pháp, đồng chư Như Lai, hà cố bất danh: Phật? hà cố bất danh: thập lực? hà cố bất danh: nhất thiết trí? hà cố bất danh: nhất thiết pháp trung đắc Bồ-đề giả? hà cố bất đắc danh vi: phổ nhãn? hà cố bất danh: nhất thiết cảnh trung vô ngại kiến giả? hà cố bất danh: giác nhất thiết Pháp? hà cố bất danh: dữ tam thế Phật vô nhị trụ giả? hà cố bất danh: trụ thật tế giả? hà cố tu hành Phổ Hiền hạnh nguyện do vị hưu tức? hà cố bất năng cứu cánh Pháp giới xả Bồ Tát đạo?
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Nhãn bạch với Bồ Tát Phổ Hiền rằng : Phật tử ! Đại Bồ Tát này được pháp như vậy, đồng với các Như Lai, sao chẳng gọi là Phật ? Sao chẳng gọi là bậc Thập lực ? Sao chẳng gọi là bậc Nhất thiết trí ? Sao chẳng gọi là bậc được bồ đề trong trong tất cả pháp ? Sao chẳng gọi là bậc thấy khắp ? Sao chẳng gọi là bậc thấy vô ngại trong tất cả cảnh ? Sao chẳng gọi là bậc giác tất cả pháp ? Sao chẳng gọi bậc trụ không hai với ba đời chư Phật ? Sao chẳng gọi bậc trụ thật tế ? Tại sao tu hành hạnh nguyện Phổ Hiền chưa từng ngừng nghỉ ? Tại sao không thể rốt ráo pháp giới xả Bồ Tát đạo ?
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Nhãn bèn nói với Bồ Tát Phổ Hiền rằng : “Đệ tử của Phật ! Vị đại Bồ Tát này đắc được đủ thứ pháp như vậy, đồng với cảnh giới của chư Phật, chẳng có khác biệt. Song, tại sao chẳng phải là Phật ? Tôi thật chẳng minh bạch. Xin nhân giả từ bi, chỉ thị mười một vấn đề dưới đây, trả lời rõ ràng những vấn đề này tại sao ?
1. Tại sao chẳng gọi là Phật ?
2. Tại sao chẳng gọi là bậc Thập lực ?
3. Tại sao chẳng gọi là bậc Nhất thiết trí ?
4. Tại sao chẳng gọi là bậc Được bồ đề trong trong tất cả pháp ?
5. Tại sao chẳng gọi là bậc Thấy khắp ?
6. Tại sao chẳng gọi là bậc Thấy rõ viên dung vô ngại trong tất cả cảnh giới ?
7. Tại sao chẳng gọi là bậc Giác ngộ tất cả pháp ?
8. Tại sao chẳng gọi là bậc Trụ không hai với ba đời chư Phật ?
9. Tại sao chẳng gọi là bậc Trụ thật tế lý thể ?
10. Tại sao vị đại Bồ Tát này, tu hành hạnh nguyện của Phổ Hiền chưa từng ngừng nghỉ ? Tức nhiên đồng với chư Phật, phải nên ngừng nghỉ, không cần tu hành nữa.
11. Tại sao vị đại Bồ Tát này, không thể rốt ráo pháp giới các pháp thật tướng ? Chưa xả bỏ đạo của Bồ Tát tu ? Tức nhiên vẫn tu Bồ Tát đạo, làm sao đồng với chư Phật ?
Bồ Tát Phổ Nhãn Ngài đương nhiên minh bạch mười một vấn đền này, nhưng vì nghĩ đến đại chúng trong pháp hội Hoa Nghiêm, và tất cả chúng sinh tương lai, nên thỉnh Bồ Tát Phổ Hiền giải đáp. Đây tức là tinh thần của Bồ Tát, nguyện làm ảnh hưởng chúng, thay thế chúng sinh để thỉnh pháp.

Nhĩ thời, Phổ Hiền Bồ Tát cáo phổ nhãn Bồ Tát ngôn: Thiện tai Phật tử! như nhữ sở ngôn, nhược thử Bồ-Tát Ma-ha-tát đồng nhất thiết Phật, dĩ hà nghĩa cố bất danh vi: Phật? nãi chí bất năng xả Bồ Tát đạo?
Bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền nói với Bồ Tát Phổ Nhãn rằng : Lành thay Phật tử ! Như lời Ngài hỏi, nếu đại Bồ Tát này đồng với tất cả chư Phật, tại sao chẳng gọi là Phật, cho đến không thể xả bỏ Bồ Tát đạo ?
Giảng: Lúc đó, Bồ Tát Phổ Hiền nói với Bồ Tát Phổ Nhãn rằng : “Lành thay ! Lành thay ! Đệ tử của Phật ! Như lời Ngài hỏi, nếu đại Bồ Tát này đồng với tất cả chư Phật, tại sao chẳng gọi là Phật, cho đến không thể xả bỏ Bồ Tát đạo ?”

Phật tử! thử Bồ-Tát Ma-ha-tát dĩ năng tu tập khứ, lai, kim thế nhất thiết Bồ Tát chủng chủng hạnh nguyện, nhập trí cảnh giới, tức danh vi: Phật; ư Như Lai sở tu Bồ Tát hạnh vô hữu hưu tức, thuyết danh: Bồ Tát. Như Lai chư lực giai tất dĩ nhập, tức danh: thập lực; tuy thành thập lực, hành Phổ Hiền hạnh nhi vô hưu tức, thuyết danh: Bồ Tát. Tri nhất thiết pháp nhi năng diễn thuyết, danh: nhất thiết trí; tuy năng diễn thuyết nhất thiết chư pháp, ư nhất nhất pháp thiện xảo tư tánh vị thường chỉ tức, thuyết danh: Bồ Tát. Tri nhất thiết pháp vô hữu nhị tướng, thị tắc thuyết danh: ngộ nhất thiết pháp; ư nhị, bất nhị nhất thiết chư pháp sái biệt chi đạo thiện xảo quán sát, triển chuyển tăng thắng vô hữu hưu tức, thuyết danh: Bồ Tát. Dĩ năng minh kiến phổ nhãn cảnh giới, thuyết danh: Phổ Nhãn
Tuy năng chứng đắc phổ nhãn cảnh giới, niệm niệm tăng trưởng vị tằng hưu tức, thuyết danh: Bồ Tát. Ư nhất thiết Pháp tất năng minh chiếu, ly chư ám chướng, danh: vô ngại kiến; thường cần ức niệm vô ngại kiến giả, thuyết danh: Bồ Tát.
Phật tử ! Đại Bồ Tát này, đã tu tập đủ thứ hạnh nguyện của tất cả Bồ Tát đời quá khứ, vị lai, hiện tại, vào cảnh giới trí huệ, tức gọi là Phật. Ở chỗ Như Lai tu hạnh Bồ Tát, không có ngừng nghỉ, gọi là Bồ Tát.
Các lực của Như Lai, thảy đều đã vào, tức gọi là thập lực. Tuy thành mười lực, thực hành hạnh Phổ Hiền mà không ngừng nghỉ, gọi là Bồ Tát.
Biết tất cả pháp mà hay diễn nói, gọi là nhất thiết trí. Tuy hay diễn nói tất cả các pháp, nơi mỗi mỗi pháp tư duy khéo léo, chưa từng ngừng nghỉ, gọi là Bồ Tát.
Biết tất cả pháp không có hai tướng, tức gọi là ngộ tất cả pháp. Nơi đạo tất cả các pháp sai biệt, hai mà chẳng hai, khéo léo quán sát, triển chuyển tăng thắng, không có ngừng nghỉ, gọi là Bồ Tát.
Đã thấy rõ cảnh giới phổ nhãn, gọi là phổ nhãn. Tuy chứng được cảnh giới phổ nhãn, niệm niệm tăng trưởng, chưa từng ngừng nghỉ, gọi là Bồ Tát.
Nơi tất cả pháp, thảy đều chiếu rõ, lìa các ám chướng, gọi là thấy vô ngại. Bậc thấy vô ngại thường siêng nghĩ nhớ, gọi là Bồ Tát.
Giảng: Phật tử ! Xin chú ý lắng nghe, nay tôi sẽ nói rõ ràng về mười một vấn đền này.
1. Đại Bồ Tát này, đã tu hành học tập đủ thứ hạnh nguyện của tất cả Bồ Tát quá khứ, vị lai, hiện tại, ba đời, vào cảnh giới nhất thiết trí huệ, liền gọi là Phật. Song, ở chỗ chư Phật vẫn tu hạnh Bồ Tát, không có lúc nào ngừng nghỉ, cho nên gọi là Bồ Tát.
2. Vị đại Bồ Tát này, đối với mười lực của chư Phật, thảy đều chứng được, liền gọi là thập lực. Tuy đã thành tựu thập lực, nhưng vẫn phải tu hành hạnh môn của Bồ Tát Phổ Hiền, chẳng có lúc nào ngừng nghỉ, cho nên gọi là Bồ Tát.
3. Vị đại Bồ Tát này, biết tất cả các pháp, minh bạch tất cả nghĩa, hay vì tất cả chúng sinh diễn nói nghĩa lý diệu pháp, liền gọi là nhất thiết trí. Tuy hay diễn nói tất cả các pháp, nhưng ở trong mỗi thứ pháp, dùng thiện xảo để tư duy, chưa từng dừng lại, hoặc ngừng nghỉ, cho nên gọi là Bồ Tát.
4. Vị đại Bồ Tát này, biết tất cả các pháp, không có hai tướng, dù một tướng cũng không có, tức gọi là ngộ tất cả pháp. Vì đối với đạo lý hai tướng chẳng tướng, phân biệt tất cả các pháp, dùng thiện xảo để quán sát, triển chuyển tăng thắng, không có lúc nào ngừng nghỉ, cho nên gọi là Bồ Tát.
5. Vị đại Bồ Tát này, đã thấy rõ cảnh giới phổ nhãn, tức gọi là phổ nhãn. Tuy chứng được cảnh giới phổ nhãn, nhưng niệm niệm tăng trưởng, vẫn phải hướng về trước cầu tiến bộ, chưa từng ngừng nghỉ, cho nên gọi là Bồ Tát.
6. Vị đại Bồ Tát này, đối với tất cả các pháp, thảy đều chiếu rõ, lìa khỏi tất cả ám chướng, cho nên gọi là thấy vô ngại. Vì Bồ Tát thường siêng nghĩ nhớ tất cả chư Phật, cho nên gọi là Bồ Tát.

Dĩ đắc chư Phật trí tuệ chi nhãn, thị tắc thuyết danh: giác nhất thiết pháp; quán chư Như Lai chánh giác trí nhãn nhi bất phóng dật, thuyết danh: Bồ Tát. Trụ Phật sở trụ, dữ Phật vô nhị, thuyết danh: dữ Phật vô nhị trụ giả; vi Phật nhiếp thọ, tu chư trí tuệ, thuyết danh: Bồ Tát. Thường quán nhất thiết thế gian thật tế, thị tắc thuyết danh: trụ thật tế giả; tuy thường quan sát chư Pháp thật tế, nhi bất chứng nhập diệc bất xả ly, thuyết danh: Bồ Tát. Bất lai bất khứ, vô đồng vô dị, thử đẳng phân biệt tất giai vĩnh tức, thị tắc thuyết danh: hưu tức nguyện giả; quảng đại tu tập, viên mãn bất thoái, tức danh: vị tức Phổ Hiền nguyện giả. liễu tri Pháp giới vô hữu biên tế, nhất thiết chư pháp nhất tướng vô tướng, thị tắc thuyết danh: cứu cánh Pháp giới xả Bồ Tát đạo; tuy tri Pháp giới vô hữu biên tế, nhi tri nhất thiết chủng chủng dị tướng, khởi đại bi tâm độ chư chúng sanh, tận vị lai tế vô hữu bì yếm, thị tắc thuyết danh: Phổ Hiền Bồ Tát.
Đã được mắt trí huệ của chư Phật, tức gọi là giác ngộ tất cả pháp. Quán các Như Lai chánh giác trí nhãn, mà chẳng phóng dật, gọi là Bồ Tát.
Trụ chỗ Phật trụ, với Phật không hai, gọi là bậc trụ với Phật không hai. Được Phật nhiếp thọ, tu các trí huệ, gọi là Bồ Tát.
Thường quán tất cả thế gian thật tế, tức gọi là bậc trụ thật tế. Tuy thường quán sát các pháp thật tế, mà không chứng nhập, cũng không xả lìa, gọi là Bồ Tát.
Chẳng đến, chẳng đi, chẳng đồng, chẳng khác, sự phân biệt này thảy đều vĩnh viễn diệt trừ, tức gọi là bậc nghỉ ngơi nguyện. Tu tập rộng lớn, viên mãn bất thối, tức gọi là bậc chưa nghỉ nguyện Phổ Hiền. Biết rõ pháp giới không có bờ mé, tất cả các pháp, một tướng vô tướng, tức gọi là rốt ráo pháp giới xả Bồ Tát đạo.
Tuy biết pháp giới không có bờ mé, mà biết đủ thứ tất cả tướng khác nhau, khởi tâm đại bi, độ các chúng sinh, hết thuở vị lai, không có mệt mỏi, tức gọi là Bồ Tát Phổ Hiền.
Giảng:
7.Vị đại Bồ Tát này, đã chứng được mắt trí huệ của chư Phật, tức gọi là giác ngộ tất cả pháp. Vì mắt quán sát chánh giác trí huệ của tất cả chư Phật, mà chẳng phóng dật, lúc nào cũng tinh tấn, ở đâu cũng đều giữ quy cụ, cho nên gọi là Bồ Tát.
8. Vị đại Bồ Tát này, trụ cảnh giới chỗ của Phật trụ, với Phật không hai, gọi là bậc trụ với Phật không hai. Vì được Phật nhiếp thọ, tu tập nhất thiết trí huệ, cho nên gọi là Bồ Tát.
9. Vị đại Bồ Tát này, thường quán sát chân thật lý thể của tất cả thế gian, tức gọi là bậc trụ thật tế. Tuy thường quán sát các pháp thật tế, mà không chứng nhập thật tế lý thể, cũng không xả lìa chân thật lý thể, cho nên gọi là Bồ Tát.
10. Vị đại Bồ Tát này, chẳng đến, chẳng đi, chẳng đồng, chẳng khác, sự phân biệt này, vĩnh viễn diệt trừ, tức gọi là bậc nghỉ ngơi nguyện. Vì Bồ Tát tu tập rộng lớn hạnh nguyện Phổ Hiền, viên mãn bất thối, tức gọi là bậc chưa nghỉ nguyện Phổ Hiền.
11. Vị đại Bồ Tát này, biết rõ pháp giới chẳng có bờ mé, tất cả các pháp, một tướng vô tướng, tức gọi là rốt ráo pháp giới xả Bồ Tát đạo. Tuy biết pháp giới không có bờ mé, mà biết có đủ thứ tất cả tướng khác nhau, khởi tâm đại bi, nguyện độ tất cả chúng sinh, dù hết thuở vị lai, cũng không có mệt mỏi, cũng không nhàm chán, cho nên gọi là Bồ Tát Phổ Hiền.

Phật tử! thí như y La bát na Tượng Vương, trụ kim hiếp sơn thất bảo quật trung, kỳ quật châu vi tất dĩ thất bảo nhi vi lan thuẫn, bảo Ta-la thụ thứ đệ hàng liệt, chân kim la võng di phước kỳ thượng; tượng thân khiết bạch do như kha tuyết, thượng lập kim tràng, kim vi anh lạc, bảo võng phước tỳ, bảo linh thùy hạ, thất chi thành tựu, lục nha cụ túc, đoan chánh sung mãn, kiến giả hân lạc, điều lương thiện thuận, tâm vô sở nghịch.
Phật tử ! Ví như voi chúa Y La Bát Na, ở núi Kim Hiếp trong hang bảy báu. Hang đó chu vi đều dùng bảy báu làm lan can. Cây đa la báu thứ tự thẳng hàng. Lưới La bằng vàng thật che phủ phía trên. Thân voi trắng khiết giống như ngọc kha tuyết, phía trên dựng tràng bằng vàng, chuỗi bằng vàng, lưới báu trùm vòi, linh báu thòng xuống. Thất chi thành tựu, đầy đủ sáu ngà, đoan chánh sung mãn, người thấy rất vui thích. Điều thuận lương thiện, tâm không trái nghịch.
Giảng: Các vị Phật tử ! Giống như voi chúa Y la bát na (hương diệp), ở núi Kim Hiếp trong hang bảy báu. Chu vi hang đó đều dùng bảy báu làm lan can, rất là trang nghiêm. Lại có rất nhiều cây đa la báu, thứ tự rất thẳng hàng, nhìn trái cũng thẳng hàng, nhìn phải cũng thẳng hàng. Lại có lưới La làm bằng vàng thật che phủ phía trên hang báu. Thân voi chúa đó màu rất trắng khiết, giống như ngọc kha tuyết, phía trên có tràng bằng vàng, chuỗi làm bằng vàng. Lại có lưới báu trùm vòi, linh báu thòng xuống, thất chi (bốn chân, đầu, âm, đuôi) thành tựu, đầy đủ sáu ngà. Chẳng những đoan chánh, mà còn sung mãn, người thấy rất vui thích. Tánh tình của voi chúa điều thuận lương thiện, bất cứ sự việc gì, tâm cũng không trái nghịch mà không vui. Tóm lại, đều tuỳ thuận tâm ý của chủ nhân (Thích Đề Hoàn Nhân), nghe sự điều khiển, phục tùng mệnh lệnh.

Nhược Thiên đế thích tướng dục du hành, nhĩ thời Tượng Vương tức tri kỳ ý, tiện ư bảo quật nhi một kỳ hình, chí Đao Lợi Thiên thích chủ chi tiền, dĩ thần thông lực chủng chủng biến hiện, lệnh kỳ thân hữu tam thập tam đầu, ư nhất nhất đầu hóa tác thất nha, ư nhất nhất nha hóa tác thất trì, nhất nhất trì trung hữu thất liên hoa, nhất nhất hoa trung hữu thất thải nữ, nhất thời câu tấu bách thiên Thiên nhạc.
Thị thời, Đế Thích thừa tư bảo tượng, tùng nan thắng điện vãng nghệ hoa viên, phân đà lợi hoa biến mãn kỳ trung. Thị thời, Đế Thích chí hoa viên dĩ, tùng tượng nhi hạ, nhập ư nhất thiết bảo trang nghiêm điện, vô lượng thải nữ dĩ vi thị tòng, ca vịnh kĩ lạc thọ chư khoái lạc.
Tượng Vương phục dĩ thần thông ẩn kỳ tượng hình hiện tác Thiên thân, dữ tam thập tam thiên cập chư thải nữ, ư phân đà lợi hoa viên chi nội hoan ngu hí lạc, sở hiện thân tướng, quang minh y phục, vãng lai tiến chỉ, ngữ tiếu quán chiêm, giai như bỉ Thiên, đẳng vô hữu dị, vô năng phân biệt; thử tượng, thử Thiên, tượng chi dữ Thiên, cánh hỗ tương tự.
Nếu như trời Đế Thích sắp muốn đi du hành, thì bấy giờ voi chúa liền biết ý của trời Đế Thích, bèn từ hang báu ẩn hình, đến trước Đế Thích trời Đao Lợi. Dùng sức thần thông biến hiện đủ thứ, khiến cho thân nó hiện ra ba mươi hai đầu. Trên mỗi đầu hoá hiện ra bảy ngà. Mỗi cái ngà hoá làm bảy ao nước, trong mỗi ao nước có bảy hoa sen, trên mỗi hoa sen có bảy thể nữ. Nhất thời đều tấu lên trăm ngàn nhạc trời.
Bấy giờ, trời Đế Thích bèn ngồi lên voi báu, từ điện Nan Thắng đi đến vườn hoa. Hoa phân đà lợi đầy khắp trong đó. Lúc đó, Đế Thích đến vười hoa rồi, từ voi chúa đi xuống, vào trong điện Tất Cả Báu Trang Nghiêm, có vô lượng thể nữ theo hầu đờn ca múa hát, thọ các sự khoái lạc.
Bấy giờ, voi chúa lại dùng thần thông, ẩn thân voi, hiện ra thân trời, cùng với trời Đế Thích, và các thể nữ, ở trong vườn hoa phân đà lợi vui chơi. Thân tướng hiện ra, ánh sáng y phục, tới lui nói cười nhìn ngắm, đều giống như chư Thiên không khác, không thể phân biệt được là voi, hoặc là chư Thiên. Voi và chư Thiên đều giống nhau.
Giảng: Nếu như trời Đế Thích (Thích Đề Hoàn Nhơn) nghĩ muốn đi du hành, thì bấy giờ voi chúa liền biết ý của trời Đế Thích, bèn từ hang báu ẩn hình, đến trước Đế Thích trời Đao Lợi. Bèn dùng sức thần thông biến hoá ra đủ thứ, khiến cho thân nó đồng thời hiện ra ba mươi hai cái đầu. Trên mỗi cái đầu hoá hiện ra bảy ngà. Trên mỗi cái ngà đều hoá hiện bảy ao nước, trong mỗi ao nước đều có bảy hoa sen báu lớn, trên mỗi hoa sen báu lớn đó, lại hoá hiện ra bảy thể nữ. Nhất thời đều tấu lên trăm ngàn thứ nhạc trời.
Bấy giờ, trời Đế Thích bèn ngồi lên voi báu trắng lớn, từ điện Nan Thắng đi đến vườn hoa thưởng ngoạn. Trong vườn hoa có hoa phân đà lợi (hoa sen trắng) đầy khắp trong đó, hoa sen trắng khiết, một bụi không nhiễm. Lúc đó, trời Đế Thích đến vười hoa rồi, từ voi chúa trắng báu đi xuống, đến điện Tất Cả Báu Trang Nghiêm. Có vô lượng thể nữ theo hầu, đờn ca múa hát, thọ các sự khoái lạc.
Bấy giờ, voi chúa lại dùng đủ thứ thần thông, ẩn mất thân voi, hiện ra thân trời, cùng với trời Đế Thích và tất cả thể nữ, ở trong vườn hoa phân đà lợi cùng nhau vui chơi thưởng ngoạn. Voi chúa trắng lớn hiện ra thân hình, ánh sáng y phục, tới lui nói cười nhìn ngắm, đủ thứ hành động, đều giống như người trời không khác, không ai có thể phân biệt được nó là voi chúa trắng lớn biến hoá ra người. Vì nó biến hoá ra người và người trời giống nhau, không cách chi phân biệt được thật giả.

Phật tử! bỉ y La bát na Tượng Vương, ư kim hiếp sơn thất bảo quật trung vô sở biến hóa, chí ư tam thập tam thiên chi thượng, vi dục cúng dường Thích-đề-hoàn-nhân, hóa tác chủng chủng chư khả lạc vật, thọ Thiên khoái lạc, dữ Thiên vô dị.
Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, tu tập Phổ Hiền Bồ Tát hạnh nguyện cập chư tam muội dĩ vi chúng bảo trang nghiêm chi cụ, thất Bồ-đề phần vi Bồ Tát thân, sở phóng quang minh dĩ chi vi võng, kiến Đại Pháp-Tràng, minh đại pháp chung, đại bi vi quật, kiên cố đại nguyện dĩ vi kỳ nha, trí tuệ vô úy do như sư tử, Pháp tăng hệ đảnh, khai thị bí mật, đáo chư Bồ-tát hạnh nguyện bỉ ngạn.
Phật tử ! Voi chúa Y La Bát Na đó, ở tại núi Kim Hiếp trong động bảy báu, chẳng có sự biến hoá. Đến trên trời Tam Thập Tam, vì muốn cúng dường Thích Đề Hoàn Nhân, mà hoá ra đủ thứ vật vui thích, thọ sự khoái lạc của chư Thiên, với chư Thiên không khác.
Phật tử ! Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tu tập hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, và các tam muội, dùng các châu báu làm đồ trang nghiêm. Bảy bồ đề phần làm thân Bồ Tát, phóng ra quang minh dùng làm lưới. Kiến lập pháp tràng lớn, đánh chung pháp lớn. Đại bi làm hang, đại nguyện kiên cố dùng làm y. Trí huệ vô uý như sư tử, lụa pháp quấn đầu, khai thị bí mật, đến được hạnh nguyện bờ bên kia của các Bồ Tát.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát cũng lại như thế, tu tập hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, và đủ thứ các tam muội khác nữa, dùng đủ thứ các châu báu làm đồ trang nghiêm. Bảy bồ đề phần làm thân của Bồ Tát, phóng ra quang minh dùng làm lưới la. Kiếp lập pháp tràng lớn, đánh chung pháp lớn. Dùng tâm đại bi làm hang bảy báu, dùng đại nguyện kiên cố làm y. Trí huệ vô uý oai lực dũng mãnh như sư tử, dùng lụa pháp để quấn đầu, khai thị pháp bí mật, đến được hạnh nguyện bờ bên kia của các Bồ Tát tu.

Vi dục an xứ Bồ-đề chi tọa, thành nhất thiết trí, đắc tối chánh giác, tăng trưởng Phổ Hiền quảng đại hạnh nguyện, bất thoái bất tức, bất đoạn bất xả, đại bi tinh tấn, tận vị lai tế độ thoát nhất thiết khổ não chúng sanh. Bất xả Phổ Hiền đạo, hiện thành tối chánh giác, hiện bất khả thuyết bất khả thuyết thành chánh giác môn, hiện bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển pháp luân môn, hiện bất khả thuyết bất khả thuyết trụ thâm tâm môn. Ư bất khả thuyết bất khả thuyết quảng đại quốc độ, hiện Niết-Bàn biến hóa môn.
Vì muốn an xứ toà bồ đề, thành tựu nhất thiết trí, đắc được tối Chánh Giác. Tăng trưởng hạnh nguyện Phổ Hiền rộng lớn, không lùi không nghỉ, không dứt không bỏ, đại bi tinh tấn, hết thuở vị lai, độ thoát tất cả phiền não chúng sinh, chẳng bỏ đạo Phổ Hiền.
Hiện thành tối Chánh Giác, hiện bất khả thuyết bất khả thuyết môn thành Chánh Giác. Hiện bất khả thuyết bất khả thuyết môn chuyển pháp luân. Hiện bất khả thuyết bất khả thuyết môn trụ thâm tâm. Tại bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước rộng lớn, hiện môn Niết Bàn biến hoá.
Giảng: Bồ Tát vì muốn an xứ toà bồ đề, cho đến thành tựu nhất thiết trí, đắc được quả vị tối Chánh Giác. Tăng trưởng hạnh nguyện Phổ Hiền rộng lớn, vĩnh viễn không thối lùi, vĩnh viễn không nghỉ ngơi, cũng không đoạn tuyệt, cũng không xả bỏ. Đại từ bi thường tinh tấn, hết thuở vị lai, độ thoát tất cả chúng sinh khổ não, khiến cho họ được an lạc.
Bồ Tát cũng chẳng xả bỏ đạo của Bồ Tát Phổ Hiền tu, thị hiện thành tựu tối thượng Chánh Giác. Hiện ra bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn thành Chánh Giác. Lại hiện ra bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn chuyển đại pháp luân. Lại hiện ra bất khả thuyết bất khả thuyết pháp môn trụ thâm tâm. Tại bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước rộng lớn, hiện ra pháp môn Niết Bàn biến hoá.

Ư bất khả thuyết bất khả thuyết sái biệt thế giới, nhi hiện thọ sanh tu Phổ Hiền hạnh, hiện bất khả thuyết bất khả thuyết Như Lai; ư bất khả thuyết bất khả thuyết quảng đại quốc độ Bồ-đề thụ hạ thành tối chánh giác, bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ Tát chúng thân cận vi nhiễu. hoặc ư nhất niệm khoảnh, tu Phổ Hiền hạnh nhi thành chánh giác, hoặc tu du khoảnh, hoặc ư nhất thời, hoặc ư nhất nhật, hoặc ư bán nguyệt, hoặc ư nhất nguyệt, hoặc ư nhất niên, hoặc vô số niên, hoặc ư nhất kiếp, như thị nãi chí bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, tu Phổ Hiền hạnh nhi thành chánh giác.
Tại bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới khác nhau, mà hiện thọ sinh, tu hạnh Phổ Hiền. Hiện bất khả thuyết bất khả thuyết Như Lai, tại bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước rộng lớn, ở dưới cội bồ đề thành tối Chánh Giác. Có bất khả thuyết bất khả thuyết chúng Bồ Tát, gần gũi vây quanh.
Hoặc ở trong khoảng một niệm, tu hạnh Phổ Hiền mà thành Chánh Giác. Hoặc trong khoảng sát na, hoặc một thời, một ngày, nửa tháng, một tháng, hoặc vô số năm, hoặc một kiếp, như vậy cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, tu hạnh Phổ Hiền, mà thành Chánh Giác.
Giảng: Bồ Tát ở trong bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới khác nhau, mà hiện tướng thọ sinh, tu hạnh Bồ Tát Phổ Hiền. Lại hiện bất khả thuyết bất khả thuyết chư Phật, tại bất khả thuyết bất khả thuyết cõi nước rộng lớn, ở dưới cội bồ đề thành tựu tối thượng Chánh Giác. Có bất khả thuyết bất khả thuyết chúng Bồ Tát, đến gần gũi đức Phật, đến vây quanh đức Phật. Hoặc ở trong khoảng một niệm, tu hạnh Phổ Hiền mà thành Chánh Giác. Hoặc trong khoảng sát na, hoặc một thời, một ngày, nửa tháng, một tháng, hoặc vô số năm, hoặc một kiếp, như vậy cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp, tu hạnh Bồ Tát Phổ Hiền, mà thành chánh giác.

Phục ư nhất thiết chư Phật sát trung nhi vi thượng thủ, thân cận ư Phật, đảnh lễ cúng dường, thỉnh vấn quan sát như huyễn cảnh giới, tịnh tu Bồ Tát vô lượng chư hạnh, vô lượng chư trí, chủng chủng thần biến, chủng chủng uy đức, chủng chủng trí tuệ, chủng chủng cảnh giới, chủng chủng thần thông, chủng chủng tự tại, chủng chủng giải thoát, chủng chủng pháp minh, chủng chủng giáo hóa điều phục chi Pháp.
Lại ở trong tất cả cõi nước chư Phật, mà làm thượng thủ. Gần gũi Phật, đảnh lễ cúng dường. Thỉnh vấn quán sát cảnh giới như huyễn. Tịnh tu vô lượng các hạnh, vô lượng các trí, thần thông biến hoá, đủ thứ oai đức, đủ thứ trí huệ, đủ thứ cảnh giới, đủ thứ thần thông, đủ thứ tự tại, đủ thứ giải thoát, đủ thứ pháp minh, đủ thứ pháp giáo hoá điều phục của Bồ Tát.
Giảng: Bồ Tát lại ở trong tất cả cõi nước chư Phật, mà làm thượng thủ. Gần gũi chư Phật, đảnh lễ chư Phật, cúng dường chư Phật. Thỉnh vấn chư Phật tất cả pháp môn, quán sát chư Phật tất cả pháp môn. Trong cảnh giới như huyễn không thật, chuyên tâm nhất chí để tu vô lượng các hạnh thanh tịnh, vô lượng các trí, thần thông biến hoá, đủ thứ oai đức, đủ thứ trí huệ, đủ thứ cảnh giới, đủ thứ thần thông, đủ thứ tự tại, đủ thứ giải thoát, đủ thứ pháp minh, đủ thứ pháp giáo hoá điều phục của Bồ Tát.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát bản thân bất diệt, dĩ hạnh nguyện lực ư nhất thiết xứ như thị biến hiện. Hà dĩ cố?
Phật tử ! Bổn thân của đại Bồ Tát không diệt. Dùng sức hạnh nguyện, tại tất cả mọi nơi, biến hiện như vậy, tại sao ?
Giảng: Các vị Phật tử ! Bổ thân của đại Bồ Tát không có huỷ diệt. Dùng đủ thứ nguyện lực tu hành, ở tại tất cả mọi nơi, tuỳ thời tuỳ lúc biến hiện như vậy, tại sao ?

Dục dĩ Phổ Hiền tự tại thần lực điều phục nhất thiết chư chúng sanh cố, lệnh bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh đắc thanh tịnh cố, lệnh kỳ vĩnh đoạn sanh tử luân cố, nghiêm tịnh quảng đại chư thế giới cố, thường kiến nhất thiết chư Như Lai cố, thâm nhập nhất thiết Phật Pháp lưu cố, ức niệm tam thế chư Phật chủng cố, ức niệm thập phương nhất thiết Phật Pháp cập Pháp thân cố, phổ tu nhất thiết Bồ Tát chư hạnh sử viên mãn cố, nhập Phổ Hiền lưu tự tại năng chứng nhất thiết trí cố.
Vì muốn dùng thần lực tự tại của Phổ Hiền, để điều phục tất cả chúng sinh. Vì khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh đắc được thanh tịnh. Vì khiến cho họ vĩnh viễn dứt bánh xe sinh tử. Vì nghiêm tịnh các thế giới rộng lớn. Vì thường thấy tất cả các Như Lai. Vì vào sâu tất cả dòng Phật pháp. Vì nghĩ nhớ dòng dõi chư Phật ba đời. Vì nghĩ nhớ pháp và pháp thân của tất cả chư Phật mười phương. Vì khắp tu các hạnh của tất cả Bồ Tát, khiến cho được viên mãn. Vì vào dòng Phổ Hiền, tự tại chứng được nhất thiết trí.
Giảng: Bồ Tát tu pháp môn Thập định, là vì mười nguyên nhân này :
1. Vì muốn dùng thần lực tự tại của Bồ Tát Phổ Hiền, để điều phục tất cả các chúng sinh.
2. Vì khiến cho bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sinh, đều đắc được nguồn gốc thanh tịnh, tánh diệu chân như.
3. Vì khiến cho tất cả chúng sinh vĩnh viễn dứt bánh xe sinh tử. Gốc rễ của sinh tử là tình ái mà ra, nếu dứt được vô minh tình ái, thì gốc rễ sinh tử cũng dứt hẳn. Do đó : “Đoạn dục khử ái”, đây là phương pháp giải quyết gốc rễ sinh tử.
4. Vì trang nghiêm thanh tịnh tất cả mười phương thế giới rộng lớn.
5. Vì thường thấy tất cả chư Phật mười phương ba đời.
6. Vì vào sâu tất cả dòng pháp rộng lớn của tất cả chư Phật.
7. Vì nghĩ nhớ dòng dõi chư Phật ba đời.
8. Vì nghĩ nhớ pháp và pháp thân của tất cả chư Phật mười phương.
9. Vì khắp tu các hạnh của tất cả Bồ Tát, khiến cho lục độ vạn hạnh sớm được viên mãn.
10. Vì khắp vào dòng pháp tánh của Bồ Tát Phổ Hiền, nhậm vận tự tại chứng được nhất thiết trí.

Phật tử! nhữ ưng quán thử Bồ-Tát Ma-ha-tát, bất xả Phổ Hiền hạnh, bất đoạn Bồ Tát đạo, kiến nhất thiết Phật, chứng nhất thiết trí, tự tại thọ dụng nhất thiết trí Pháp. Như y La bát na Tượng Vương bất xả tượng thân, vãng tam thập tam thiên, vi Thiên sở thừa, thọ Thiên khoái lạc, tác Thiên du hí, thừa sự Thiên Chủ, dữ Thiên thải nữ nhi tác hoan ngu, đồng ư chư Thiên vô hữu sái biệt.
Phật tử ! Ông nên quán đại Bồ Tát này, không bỏ hạnh Phổ Hiền, không dứt Bồ Tát đạo, thấy tất cả chư Phật, chứng nhất thiết trí, tự tại thọ dụng pháp nhất thiết trí. Như voi chúa Y La Bát Na, chẳng bỏ thân voi, mà ở trời Tam Thập Tam, được trời Đế Thích cỡi, thọ khoái lạc trên trời, làm người trời vui chơi. Hầu hạ Thiên chủ, vui chơi với thể nữ, giống như chư Thiên, không có gì khác biệt.
Giảng: Phật tử ! Ông nên quán vị đại Bồ Tát này, Ngài không bỏ hạnh của Bồ Tát Phổ Hiền tu, cũng không đoạn tuyệt Bồ Tát đạo. Thấy tất cả chư Phật chứng được nhất thiết trí, tự tại thọ dụng pháp môn nhất thiết trí. Giống như voi chúa Y la bát na, chẳng bỏ thân voi, mà ở trời Tam Thập Tam, được trời Đế Thích cỡi, thọ khoái lạc trên trời, làm người trời vui chơi. Hầu hạ Thiên chủ, vui chơi với thể nữ, giống như chư Thiên, không có gì khác biệt.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát diệc phục như thị, bất xả Phổ Hiền Đại-Thừa chư hạnh, bất thoái chư nguyện, đắc Phật tự tại, cụ nhất thiết trí, chứng Phật giải thoát, Vô chướng vô ngại, thành tựu thanh tịnh, ư chư quốc độ vô sở nhiễm trước, ư Phật Pháp trung vô sở phân biệt; tuy tri chư Pháp phổ giai bình đẳng vô hữu nhị tướng, nhi hằng minh kiến nhất thiết Phật thổ; tuy dĩ đẳng đồng tam thế chư Phật, nhi tu Bồ Tát hạnh tướng tục bất đoạn.
Phật tử ! Đại Bồ Tát cũng lại như thế, không bỏ các hạnh đại thừa Phổ Hiền, không thối chuyển các nguyện. Được tự tại của Phật, đủ nhất thiết trí. Chứng được giải thoát của Phật, không chướng không ngại, thành tựu thanh tịnh. Nơi các cõi nước không có nhiễm trước. Ở trong Phật pháp không có phân biệt. Tuy biết các pháp khắp đều bình đẳng, không có hai tướng, mà luôn thấy rõ tất cả cõi Phật. Tuy đã bình đẳng đồng với chư Phật ba đời, mà tu Bồ Tát hạnh liên tục không ngừng.
Giảng: Các vị Phật tử ! Đại Bồ Tát cũng lại như thế, không xả bỏ tất cả hạnh môn đại thừa Bồ Tát Phổ Hiền tu, không thối chuyển các nguyện đã phát, đắc được tự tại của chư Phật, đầy đủ nhất thiết trí huệ. Chứng được giải thoát của chư Phật, cảnh giới không chướng, không ngại, thành tựu quả vị thanh tịnh. Nơi các cõi nước của chư Phật, không có nhiễm trước. Ở trong pháp của tất cả chư Phật nói, không có phân biệt.
Tuy Bồ Tát biết tất cả các pháp, đều là bình đẳng, không có hai tướng, mà luôn luôn thấy rõ cõi nước của tất cả chư Phật. Tuy đã bình đẳng đồng với chư Phật ba đời, mà vẫn tu tất cả hạnh môn của Bồ Tát tu, liên tục không ngừng.

Phật tử! Bồ-Tát Ma-ha-tát an trụ như thị Phổ Hiền hạnh nguyện quảng đại chi Pháp, đương tri thị nhân tâm đắc thanh tịnh.
Phật tử ! Đại Bồ Tát an trụ pháp hạnh nguyện Phổ Hiền rộng lớn như vậy, nên biết người đó tâm được thanh tịnh.
Giảng: Phật tử ! Đại Bồ Tát an trụ ở trong pháp hạnh nguyện rộng lớn của Bồ Tát Phổ Hiền tu như vậy, nên biết người đó tâm đắc được cảnh giới thanh tịnh, không nhiễm ô.

Phật tử! thử thị Bồ-Tát Ma-ha-tát đệ thập vô ngại luân Đại tam muội thù thắng tâm quảng đại trí.
Phật tử! thử thị Bồ-Tát Ma-ha-tát sở trụ Phổ Hiền hạnh thập Đại tam muội luân.
Phật tử ! Đó là đại tam muội Vô ngại luân, tâm thù thắng trí quảng đại thứ mười của đại Bồ Tát.
Phật tử ! Đó là sở trụ mười đại tam muội luân, hạnh Phổ Hiền của đại Bồ Tát.
Giảng: Phật tử ! Đó là đại tam muội Vô ngại luân, tâm thù thắng trí huệ quảng đại thứ mười của đại Bồ Tát tu.
Phật tử ! Đó là sở trụ mười đại tam muội luân, hạnh Phổ Hiền của đại Bồ Tát.